Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 17 | Chương 19 >> | Hướng Dẫn

THÁNH KINH

E-xơ-ra - Nê-hê-mi - Ê-xơ-tê

 

Từ chốn lưu đày trở về cố hương
Thành Giê-ru-sa-lem được xây cất lại

 

Ba sách nầy hợp thành phần chót của lịch sử Cựu Ước. Nó tường thuật truyện tích dân Do-thái từ Ba-by-lôn trở về, sự xây lại Ðền thờ và thành Giê-ru-sa-lem, và sự khôi phục cuộc sanh hoạt quốc gia của người Do-thái trên chính đất nước của họ. Ba sách nầy gồm một khoảng chừng 100 năm (536-432 T.C.).

Ba tiên tri cuối cùng, là A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi, đã sống và hoạt động trong thời kỳ phục hưng nầy của người Do-thái.

 

Có hai thời kỳ đặc biệt:

536-516 T.C..-- Trong 20 năm nầy, dưới quyền điều khiển của quan trấn thủ Xô-rô- ba-bên và thầy thầy tế lễ cả Giê-hô-sua, Ðền thờ, là trung tâm cuộc sanh hoạt quốc gia của người Do-thái, đã được xây cất lại (E-xơ-ra, đoạn 3 đến 6). A-ghê và Xa-cha-ri thuộc về thời kỳ nầy.

457-432 T.C..-- Trong 25 năm nầy, dưới quyền quan trấn thủ Nê-hê-mi và thầy tế lễ E-xơ-ra, vách thành đã được xây cất lại, và Giê-ru-sa-lem lại là một thành kiên cố. Ma-la-chi thuộc về thời kỳ nầy.

E-xơ-ra tường thuật cả hai thời kỳ

Nê-hê-mi tường thuật thời kỳ thứ hai.

Ê-xơ-tê xen vào giữa hai thời kỳ

 

Có ba lần hồi hương:

536 T.C.. Xô-rô-ba-bên cùng với 42.360 người Do-thái, 7337 tôi tớ, 200 ca công, 736 con ngựa, 245 con la, 435 con lạc đà, 6720 con lừa và 5400 khí dụng bằng vàng, bằng bạc đã bị cướp mất ở Giê-ru-sa-lem.

457 T.C.. E-xơ-ra với 1754 người nam, 100 ta-lâng vàng, 750 ta-lâng bạc, kể cả lễ vật của vua. Không nói có đờn bà, con trẻ cùng đi hay chăng. Hành trình hết 4 tháng.

444 T.C.. Nê-hê-mi, với tư cách trấn thủ và có một đội quân hậu vệ, đã trở về xây lại thành Giê-ru-sa-lem, có vách lũy kiên cố, các khoản kinh phí do chánh phủ chịu.

 

Niên hiệu của cuộc phục hưng

536 T.C.. 49.897 người từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem

536 T.C.. Tháng 7, họ lập bàn thờ và dâng tế lễ.

535 T.C.. Công việc xây Ðền thờ bắt đầu và bị ngưng trệ.

520 T.C.. A-ghê và Xa-cha-ri lại khởi công.

516 T.C.. Hoàn thành Ðền thờ.

458 T.C.. Ê-xơ-tê được làm hoàng hậu Ba-tư.

457 T.C.. E-xơ-ra từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem.

444 T.C.. Nê-hê-mi xây lại vách thành.

432 T.C.. Nê-hê-mi lại từ Ba-by-lôn trở về.

Nước Y-sơ-ra-ên đã bị A-SI-RI bắt làm phu tù (721 T.C.).

Nước Giu-đa đã bị Ba-By-Lôn bắt làm phu tù (606 T.C.).

Sự hồi hương từ chốn phu tù đã do Ba-Tư cho chép (536 T.C.).

 

Ðế quốc Ba-tư

Chánh sách của các vua A-si-ri và Ba-by-lôn là lưu đày những dân tộc bị chinh phục, nghĩa là đem họ đi xa xứ sở và làm cho tan lạc ở những nước khác; còn chánh sách của vua Ba-tư lại trái hẳn, tức là đem những dân tộc ấy trở về xứ sở của họ. Các vua Ba-tư có nhơn đạo hơn các vua A-si-ri và Ba-by-lôn.

Một trong những hành động đầu tiên của Si-ru, vị vua Ba-tư thứ nhứt, "một hoàng đế cao thượng và công bình lạ lùng," là cho phép người Do-thái trở về xứ sở.

Ba-tư là một vùng cao nguyên rộng lớn, có núi non, ở phía Ðông của mạn dưới thung lũng Ơ-phơ-rát và Ti-gơ-rơ. Ðế quốc Ba-tư rộng lớn hơn các đế quốc trước, phía Ðông giáp biên giới Ấn-độ, và phía Tây giáp biên giới Hy-lạp. Thủ đô là Persepolis và Su-rơ (Ê-xơ-tê 1:2). Thỉnh thoảng các vua Ba-tư cũng ở tại Ba-by-lôn. Với tư cách đế quốc bá chủ thế giới, Ba-tư đã tồn tại được 200 năm (536-331 T.C.). Các vua Ba-tư là:

Si-ru (538-529 T.C.). Chiến thắng Ba-by-lôn (536 T.C.). Ðưa Ba-tư lên địa vị đế quốc bá chủ thế giới. Cho phép dân Do-thái trở về quê hương, để được ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai.

Cambyses (529-522 T.C.). Người ta tưởng rằng ông là "[1]t-ta-xét-xe" có chép ở E-xơ-ra 4:7, 11, 23 đã ra lịnh ngưng việc xây cất Ðền thờ.

Ða-ri-út I (Hystaspes) (521-485 T.C.). Cho phép hoàn thành Ðền thờ (E-xơ-ra 6). Trứ tác bi văn "Behistun" có danh tiếng.

Xẹt-xe (A-suê-ru) (485-465 T.C.). Nổi tiếng vì đã giao chiến với người Hy-lạp. Ê-xơ-tê là hoàng hậu của ông. Mạc-đô-chê là thủ tướng của ông.

[1]t-ta-xét-xe I (Longimanus) (465-425 T.C.). Rất khoan hồng đối với dân Do-thái. Cho phép Nê-hê-mi, quan tửu chánh của mình, xây lại thành Giê-ru-sa-lem.

Xẹt-xe II (424); Ða-ri-út II (Nothius) (423-405); [1]t-ta-xét-xe II (Mnemon) (405-358); [1]t-ta-xét-xe III (Ochus) (358-338); Arses (338-335).

Ða-ri-út III (Codomanus) (335-331). Ông bị Alexandre đại đế đánh bại năm 331 T.C., tại trận Arbela nổi danh trong lịch sử, gần vị trí thành Ni-ni-ve. Ðó là lúc Ba-tư sụp đổ và Hy-lạp dấy lên. Ðế quốc chuyển từ Á-châu qua Âu-châu.


 


Bản đồ số 42 -- Ðế quốc Ba-tư

 

=======================================


E-xơ-ra

 

 

Từ Chốn Lưu Ðày Trở Về Xứ Sở
Xây Lại Ðền Thờ
Hành trình của E-xơ-ra về Giê-ru-sa-lem

 

 

Người ta cho rằng chính E-xơ-ra là tác giả sách nầy

 

Ðoạn 1 -- Chiếu chỉ của Si-ru

Hai câu chót của sách II Sử ký giống in hai câu đầu của sách E-xơ-ra, có lẽ vì nguyên thủy sách Sử ký và sách E-xơ-ra là một. Chiếu chỉ cho phép dân Do-thái trở về Giê-ru-sa-lem đã được ban bố ít lâu sau khi Ða-ni-ên đọc chữ mà bàn tay viết trên tường, có ý tuyên bố rằng Ba-by-lôn sẽ mất về tay Ba-tư; biến cố nầy đã xảy ra ngay đêm đó (Ða-ni-ên 5:25-31). Có lẽ Ða-ni-ên chỉ cho Si-ru xem những lời tiên tri đã được ứng nghiệm như vậy (Giê-rê-mi 25:11-12; 29:10), luôn với những lời tiên tri của Ê-sai, từ 200 năm trước, đã gọi đích danh Si-ru và quả quyết rằng dưới đời trị vì của ông, người Do-thái sẽ trở về và xây lại thành Giê-ru-sa-lem (Ê-sai 44:26-28; 45:1, 13). Si-ru hết sức tôn trọng Ðức Chúa Trời của dân Do-thái, nào có lạ gì (câu 3). "Sết-ba-xa" (câu 8) chắc là tên của Xô-rô-ba-bên theo tiếng Ba-by-lôn (3:2).

 

Ðoạn 2 -- Lập sổ những người hồi hương

42.360 người, không kể các tôi tớ (câu 64, 65). Tổng cộng các con số tách riêng kém tổng số nầy chừng 11.000. Có người cho rằng số thặng dư nầy gồm những kẻ lưu đày thuộc về các chi phái khác ngoài chi phái Giu-đa. Hai chi phái Ép-ra-im và Ma-na-se được ghi chép ở I Sử ký 9:3, còn "Y-sơ-ra-ên" thì được nhắc đến ở E-xơ-ra 10:25. Danh từ "cả dân Y-sơ-ra-ên" dùng để chỉ về những kẻ hồi hương (2:70; 6:17; 8:35). Họ đã dâng 12 con bò đực và 12 con dê đực vì "cả dân Y-sơ-ra-ên" (6:17). Ấy dường như những phu tù Giu-đa trên đường về cố hương, đi ngược thung lũng Ơ-phơ-rát, qua miền định cư của những phu tù thuộc nước Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc, và đã thâu nhận một số người muốn cùng hồi hương với mình. Ðiểm nầy giúp ta hiểu biết tại sao đương thời Tân Ước, người Do-thái vẫn được gọi là "Mười hai chi phái" (Lu-ca 22:30; Công vụ các sứ đồ 26:7; Gia-cơ 1:1).

 

Ðoạn 3 -- Ðặt nền móng Ðền thờ

Nhằm tháng 7, năm thứ nhứt của cuộc hồi hương, họ lập bàn thờ và giữ lễ Lều tạm, vui mừng cảm tạ Ðức Chúa Trời. Tháng 2 năm sau, khi nền móng Ðền thờ đã đặt xong, họ làm cho các từng trời rung chuyển vì tiếng hò reo ngợi khen Chúa. Song những người già cả đã thấy Ðền thờ thứ nhứt, thì lớn tiếng khóc lóc, vì so sánh với Ðền thờ kia, Ðền thờ nầy chẳng ra chi hết. "Giê-sua" (1:1) mà A-ghê 1:1 chép là "Giê-hô-sua," là con trai của thầy tế lễ Giô-sa-đác đã bị đem qua Ba-by-lôn (I Sử ký 6:15 dịch là "Giê-hô-xa-đác"). "Xô-ra-ba-bên" làm quan trấn thủ (A-ghê 1:1). Ông là cháu nội của Giê-hô-gia-kin, là vua đã bị đưa qua Ba-by-lôn (I Sử ký 3:17-19). Nếu còn nước, thì ông đã được làm vua. Với sự trang nhã tột bậc, Si-ru đã cử ông làm quan trấn thủ xứ Giu-đa.

 

======================================


Nê-hê-mi

 

Xây Lại Vách Thành Giê-ru-sa-lem

 

Theo truyền thoại lâu đời của người Do-thái, thì E-xơ-ra là tác giả của các sách I Sử ký, II Sử ký, E-xơ-ra và Nê-hê-mi, vì 4 sách nầy nguyên thủy là một cuốn. Tuy nhiên, có một số người tưởng rằng chính Nê-hê-mi đã viết sách Nê-hê-mi.

E-xơ-ra là chắc nội của thầy tế lễ Hinh-kia, người 160 năm trước, đã điều khiển cuộc cải cách của vua Giô-si-a (E-xơ-ra 1:1; II Các vua 22:8). Ông xứng đáng là chắc của một ông cố nội trứ danh. Ông từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem năm 457 T.C., tức là 80 năm sau khi đoàn người Do-thái thứ nhứt hồi hương, và 13 năm trước khi Nê-hê-mi tới nơi. Ông vừa là thầy tế lễ, vừa là văn sĩ (Tân Ước dịch là "thầy thông giáo) (E-xơ-ra 7:11), trong giai đoạn chuyển tiếp từ các tiên tri qua các văn sĩ. Người ta nói rằng ông đã giúp việc cấu tạo Kinh điển Cựu Ước.

Nê-hê-mi về tới Giê-ru-sa-lem năm 444 T.C.; và E-xơ-ra đã ở đó 13 năm rồi. Nhưng E-xơ-ra là thầy tế lễ, dạy đạo cho nhơn dân. Còn Nê-hê-mi về với tư cách quan trấn thủ, được vua Ba-tư cho phép xây lại vách lũy và khôi phục Giê-ru-sa-lem làm một thành kiên cố. Người Do-thái đã hồi hương gần 100 năm rồi, nhưng họ ít tiến xa hơn sự xây lại Ðền thờ, -- một Ðền thờ rất tầm thường; ấy vì mỗi khi họ khởi công xây vách thành, thì những người lân cận hùng mạnh hơn hoặc phô trương thanh thế ngăn cản họ, hoặc dùng mưu khiến triều đình Ba-tư ra lịnh ngừng công việc lại.

 

Ðoạn 1, 2 -- Hành trình của Nê-hê-mi về Giê-ru-sa-lem

Nhiều khúc của sách nầy dùng ngôi thứ nhứt, vì là trực tiếp trưng dẫn các bản phúc trình chánh thức của Nê-hê-mi.

Nê-hê-mi là một người cầu nguyện, ái quốc, hoạt động, can đảm và bền đỗ. Bao giờ ông cũng được thúc giục cầu nguyện trước hết (1:4; 2:4; 4:4, 9; 6:9, 14). Ông để 4 tháng cầu nguyện trước khi thỉnh cầu vua (1:1; 2:1).

Nê-hê-mi là quan tửu chánh của [1]t-ta-xét-xe (1:11; 2:1), tức là giữ một chức vụ tin cẩn và quan trọng. [1]t-ta-xét-xe là vua Ba-tư (465-425 T.C.), con trai của Xẹt-xe, và như vậy, ông là con ghẻ của hoàng hậu Ê-xơ-tê, người Do-thái. Ê-xơ-tê được làm hoàng hậu Ba-tư chừng 60 năm sau khi người Do-thái trở về Giê-ru-sa-lem. Sự trạng nầy chắc đã làm cho người Do-thái được uy tín lớn tại triều đình Ba-tư. Chắc lúc E-xơ-ra và Nê-hê-mi về Giê-ru-sa-lem, thì Ê-xơ-tê còn sống và rất có thế lực trong hoàng cung. Chúng tôi đoán rằng chính là nhờ Ê-xơ-tê mà ạt-ta-xét-xe có lòng nhơn từ đối với người Do-thái và lo cho thành Giê-ru-sa-lem được xây lại.

 

Ðoạn 3 -- Sửa chữa các cổng thành 

Bí Chú Khảo Cổ: 

Ngày nay ta có thể thấy rõ di tích của "cái thang từ thành Ða-vít trở xuống" (câu 15), "nơi đối ngang góc thành" (câu 25), và "tháp ló ra" (câu 26).

 

Ðoạn 4, 5, 6 -- Xây vách thành

Những kẻ thù lâu đời của dân Do-thái, là người Mô-áp, Am-môn, Ách-đốt, Ả-rập, hiện đang chiếm xứ; lại thêm những người Sa-ma-ri mới đưa tới nữa. Một cách xảo quyệt và sâu cay, bọn nầy đã phản đối việc xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem. Chúng huy động quân đội và tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng Nê-hê-mi đặt đức tin nơi Ðức Chúa Trời, khéo léo cấp khí giới cho các chiến sĩ của mình và bố trí họ, rồi cứ tiến hành công việc suốt ngày đêm; vậy, mặc dầu có mọi trở lực, vách thành đã hoàn tất trong 52 ngày. Rốt lại, 142 năm, sau khi bị hủy phá (586 T.C.), Giê-ru-sa-lem lại là một thành kiên cố.

 

Ðoạn 7, 8 -- Ðọc quyển sách Luật pháp trước công chúng

Xây vách thành Giê-ru-sa-lem xong, Nê-hê-mi và E-xơ-ra bèn triệu tập dân chúng để tổ chức cuộc sanh hoạt quốc gia. Ðoạn 7 gần giống như đoạn 2 sách E-xơ-ra, vì nó kê danh sách những người đã cùng Xô-rô-ba-bên trở về Giê-ru-sa-lem gần 100 năm trước. Có một vài vấn đề gia hệ cần phải để ý đến.

Rồi suốt 7 ngày, ngày nào cũng từ sáng sớm tới trưa, E-xơ-ra và những kẻ giúp việc ông "giở sách ra trước mặt cả dân sự... Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Ðức Chúa Trời, rồi giải nghĩa nó ra, làm cho người ta hiểu lời họ đọc" (8:5, 8). Sự đọc và giải nghĩa Sách của Ðức Chúa Trời trước công chúng đó đã làm cho nhơn dân ăn năn tha thiết như sóng dậy, và có một cuộc phục hưng cả thể, cùng long trọng kết ước vâng giữ Luật pháp, như ta nhận thấy ở các đoạn 9, 10.

Chính sự tìm thấy quyển sách Luật pháp, đã đem lại cuộc cải cách lớn lao dưới đời trị vì của Giô-si-a (II Các vua 22). Chính nhờ Martin Luther tìm thấy Kinh Thánh (thời ấy người ta cấm lưu hành) mà có cuộc Cải chánh Tin Lành, đem lại tự do tín ngưỡng cho thế giới ngày nay. Vì lấy sắc lịnh của loài người thay thế Lời Ðức Chúa Trời, nên một Giáo hội kia đã bị cằn cỗi. Nhược điểm của Hội Thánh Tin Lành ngày nay là xao lãng Kinh Thánh mà ta tự nhận là vâng theo. Nhu cầu trọng đại của tòa giảng (Mục-sư, Truyền đạo) ngày nay là giải nghĩa Kinh Thánh một cách giản dị. Hầu hết những lời giảng dạy khác chẳng đáng cho ta nghe.

 

Ðoạn 9, 10, 11, 12 -- Giao ước; Lễ khánh thành vách lũy

Với lòng ăn năn thống thiết và sốt sắng tột bậc, họ "lập giao ước chắc chắn,... ghi chép nó,... đóng ấn cho,... mà thề hứa đi theo luật pháp của Ðức Chúa Trời" (9:38; 10:29). Vách lũy đã hoàn thành và khánh thành rồi, một phần mười dân chúng bèn được đưa vào ở Giê-ru-sa-lem, và họ lo tổ chức hành chánh cùng sự thờ phượng trong Ðền thờ.

 

Ðoạn 13 -- Chung kết sự nghiệp của Nê-hê-mi

Ông sửa lại những khuyết điểm và thuế phần mười, ngày Sa-bát và sự cưới gả lẫn lộn với người dân ngoại. Nê-hê-mi làm quan trấn thủ xứ Giu-đa rất ít là 12 năm (5:11). Sử gia Josèphe nói rằng ông sống rất lâu và làm quan trấn thủ xứ Giu-đa cho tới lúc qua đời. Sách II Macchabées chép rằng: "Nê-hê-mi sáng lập một thư viện, thâu thập những sách vở về các vua và các tiên tri, những sách của Ða-vít và những thư tín của các vua đã bị rải rác vì chiến tranh."

 

===================================


Ê-xơ-tê

 

Dân Do-thái được giải cứu khỏi bị tuyệt diệt

 

Dân Do-thái từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem năm 536 T.C..

Ðền thờ được xây lại năm 536-516 T.C..

Ê-xơ-tê, một thiếu nữ Do-thái, được phong làm hoàng hậu Ba-tư năm 478 T.C..

Ê-xơ-tê cứu dân Do-thái khỏi bị tàn sát năm 473 T.C.

E-xơ-ra từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem năm 457 T.C.

Nê-hê-mi xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem năm 444 T.C..

Vậy, Ê-xơ-tê xuất hiện chừng 40 năm sau khi Ðền thờ được xây lại và chừng 30 năm trước khi vách thành Giê-ru-sa-lem được xây lại.

Về niên đại, thì dầu sách Ê-xơ-tê được chép sau sách Nê-hê-mi, nhưng các biến cố trong sách Ê-xơ-tê lại xảy ra trước các biến cố trong sách Nê-hê-mi chừng 30 năm. Dường như Ê-xơ-tê đã giúp cho Nê-hê-mi thi hành công tác được. Vì bà lấy được vua, nên dân Do-thái chắc đã được nhiều uy tín. Nếu không có Ê-xơ-tê, thì ta không thể đoán đã có gì xảy đến cho dân tộc Do-thái. Nếu chẳng có bà, thì thành Giê-ru-sa-lem chẳng bao giờ được xây lại, và lịch sử mọi thời đại tương lai chắc là khác hẳn.

Sách Ê-xơ-tê luận về một biến cố lịch sử rất quan trọng, chớ không phải chỉ là truyện tích nêu lên một điểm đạo đức. Biến cố ấy là dân tộc Hê-bơ-rơ được cứu khỏi bị tuyệt diệt trong những ngày theo sau cuộc lưu đày tại Ba-by-lôn. Nếu dân tộc Hê-bơ-rơ hoàn toàn bị trừ diệt 500 năm trước khi sanh ra Ðấng Christ trong thế gian nầy, thì có lẽ các kế hoạch của Ðức Chúa Trời và số phận của loài người đã đổi khác: Không có dân tộc Hê-bơ-rơ, thì không có Ðấng Mê-si; không có Ðấng Mê-si, thì loài người vẫn bị hư mất. Dầu trang thiếu nữ Do-thái kiều diễm xưa kia có lẽ không biết, nhưng nàng thật đã đóng vai quan trọng mở đường cho Ðấng Cứu thế ngự đến.

 

Ðoạn 1 -- Hoàng hậu Vả-thi bị phế

"A-suê-ru" là một tên khác của Xẹt-xe, đã trị vì đế quốc Ba-tư từ 485 đến 465 T.C.. Ông là một trong những hoàng đế danh tiếng lừng lẫy nhứt thời xưa. Nhờ các bi văn Ba-tư, ta được biết rằng vua đã mở đại yến chép trong đoạn nầy để dự bị cuộc viễn chinh đánh Hy-lạp lừng danh trong lịch sử,-- trong cuộc viễn chinh nầy, ông đã đánh hai trận ThermopylesSalamine (480 T.C.). Dường như ông truất phế hoàng hậu Vả-thi năm 482 T.C., trước khi ra đi, và đã cưới Ê-xơ-tê năm 478 T.C., sau cuộc viễn chinh đánh Hy-lạp và bị thua lớn (1:3; 2:16).

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Cung điện Su-sơ (câu 2)

Su-sơ, cách Ba-by-lôn 200 dặm về phía Ðông, thủ đô xứ Ê-lam, là nơi ở mùa đông của các vua Ba-tư. Năm 1852, ông Loftus đã tìm thấy vị trí của Su-sơ, vì đã kiếm được một bi văn của vua ạt-ta-xét-xe II (405-358 T.C.) có ghi rằng: "Tổ tiên ta, là Ða-ri-út, đã xây cất cung điện nầy từ ngày xưa; đến đời trị vì của ông nội ta (ạt-ta-xét-xe I), thì cung điện nầy vị thiêu hủy. Chính ta đã xây cất nó lại."

Vậy, cung điện nầy là nơi ở của Ða-ri-út, là vua đã cho phép xây lại Ðền thờ; của Xẹt-xe, là chồng của Ê-xơ-tê, và của ạt-ta-xét-xe I, là vua đã cho phép Nê-hê-mi xây lại thành Giê-ru-sa-lem.

Năm 1884-1886, một người Pháp, tên là Dieulafoy, tiếp tục đào bới, và trong đống di tích, ông đã chỉ đúng "cửa vua" (4:2); "nội viện" (5:1); "ngoài viện" (6:4); "ngự viện" (7:7); thậm chí ông cũng tìm được "phu rơ" (3:7), là vật họ dùng để bắt thăm.

 

Ðoạn 2 -- Ê-xơ-tê được làm hoàng hậu

13 năm sau, A-suê-ru băng hà. Chắc Ê-xơ-tê còn sống lâu lắm trong đời trị vì của con ghẻ mình, là ạt-ta-xét-xe, và với tư cách thái hậu, bà chắc là người có thế lực lớn đương thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi.

 

Ðoạn 3, 4, 5, 6, 7 -- Chiếu chỉ do Ha-man nhơn danh A-suê-ru mà ban hành

Ðể giết người Do-thái ở khắp các tỉnh (3:12, 13). Việc nầy xảy ra năm thứ 12 đời trị vì của vua A-suê-ru, và sau khi Ê-xơ-tê làm hoàng hậu được 5 năm.

Khi Ê-xơ-tê bước vào để vì dân mình mà kêu xin vua, thì sự ân cần của ông (5:3) tỏ ra rằng dầu bà đã làm vợ ông 5 năm rồi, ông vẫn còn quí mến bà.

Kết cuộc là Ha-man đã bị treo trên trụ hình, và địa vị của hắn được ban cho Mạc-đô-chê, là anh họ của Ê-xơ-tê.

Sách Ê-xơ-tê chẳng ghi danh hiệu Ðức Chúa Trời, có lẽ vì sách nầy đã sao lại các ký văn Ba-tư. Tuy nhiên, không có chỗ nào sự săn sóc và sắp đặt của Ðức Chúa Trời được thấy rõ ràng hơn.

 

Ðoạn 8, 9 -- Sự giải cứu; lễ Phu-rim

Vì chiếu chỉ của vua Ba-tư không thể thay đổi (8:8; Ða-ni-ên 6:15), nên chiếu chỉ tàn sát dân Do-thái không thể đổi khác. Nhưng Ê-xơ-tê đã thuyết phục vua ký một chiếu chỉ khác cho phép dân Do-thái chống cự và giết mọi kẻ tấn công họ; và họ thật đã giết 75000 người. Vậy, Ê-xơ-tê cứu chủng tộc Do-thái khỏi bị tuyệt diệt.

Ê-xơ-tê chẳng những xinh đẹp, nhưng còn khôn ngoan. Chúng ta kính mộ bà chẳng những vì bà yêu nước và can đảm, nhưng cũng vì bà khéo léo và sáng suốt, biết cách khiến được chồng mình; chúng tôi tưởng đó không phải là một hành động ti tiện trong đời sống phụ nữ.

Ðó là căn nguyên của lễ Phu-rim mà ngày nay người Do-thái còn giữ.

 

Ðoạn 10 -- Sự cao trọng của Mạc-đô-chê

Mạc-đô-chê được địa vị cao trọng trong triều đình, chỉ kém một mình vua mà thôi. Càng ngày ông càng cao trọng; danh tiếng ông vang lừng khắp các tỉnh (9:4; 10:3). Việc nầy xảy ra dưới đời trị vì của Xẹt-xe, vị hoàng đế oai hùng của đế quốc Ba-tư: Thủ tướng của ông là một người Do-thái, và chính vợ sủng ái của ông cũng là người Do-thái. Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê là bộ óc và trái tim của cung vua! Sự kiện nầy mở đường cho công nghiệp của E-xơ-ra và Nê-hê-mi. Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê ở Ba-tư cũng như Giô-sép ở Ai-cập và Ða-ni-ên ở Ba-by-lôn vậy.