Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 76

Năm Mới - Đổi Mới

(2 Côrinhtô 5:17)

New Year - Transformation

 

“Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới;

những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.”

“Therefore, if anyone is in Christ, the new creation has come: The old has gone, the new is here!”

 

 

I. Những Đnh Luật Tự Nhiên

 

> Năm mới đã đến, Tết Kỷ Hợi đã qua. Ở Việt-nam thì c/ta ăn Tết đến cả tháng, nhưng ở Mỹ, vì hoàn cảnh… hình như Năm Mới đến và trôi qua cách nhanh chóng, nhất là khi ngày đầu năm xảy ra vào  một ngày làm việc trong tuần. (Vietnamese New Year or Tet came and passed. In Vietnam, we usually celebrate Tet for a whole month; but not here, because the working schedule of many of us have.)

> Năm mới đã đến, quí vị có điều gì mới mẻ không? (Tet is already here - Have you experienced any newness yet?)

# Người Mỹ thì thường chúc nhau ba chữ “Happy New Year,” còn người Việt khi Tết đến thì chúc nhau “Tân Xuân,” nhưng dù chúc nhau đến bao nhiêu đi nữa thì hầu như sau một thời gian ngắn, mọi sự “đâu cũng lại vào đó,” chẳng có gì là mới mẻ thêm, mà chỉ làm chúng ta “già” thêm một tuổi. Vào mấy ngày đầu năm, c/ta nghe tiếng pháo nổ, ăn bánh chưng, hát Karaôkê, vui chơi lì xì con cháu, nghỉ ngơi một chút, rồi ai nấy cũng trở lại một nếp sống bình thường ”đô vật” với cái “job” hay công việc học hành của mình. (When New Year comes, we tend to wish each other “Happy New year,” however – this wish s ems to just last for only a short time, and then we all have to return to “business as usual,” struggling with our job or school work.)

> Năm Mới đã đến chưa thấy điều gì mới mẻ hết, nhưng khi nhìn về tương lai, thấy toàn là những nỗi lo sợ và bối rối hơn mà thôi, nhất là khi thấy còn có những ngòi nổ chiến tranh ở khắp nơi, cùng với sự lộn xộn, và tranh chấp giữa hai phái Cộng Hòa và Dân Chủ trong chính quyền Mỹ, mà có thể làm cho nền thương mại bị suy kém lại trong năm nay. (Looking into the future, new blessings seem to be far away, because of many rumors of wars in the world today, and the present discord in the US government - that may cause a loom to this year economy?)

 

> Nhưng dù tình huống ở bên ngoài như thế nào đi nữa… c/ta cũng có thể kinh nghiệm được sự đổi mới thật bên trong luôn, mà sống vui vẻ, bình an và thỏa lòng? (But no matter what the outside circumstance is, we can always experience a newness in our heart, living joyfully, peacefully with full of contentment.)

# Lời của Chúa trong sách Kinh Thánh 2 Côrinhtô 5:17 có chép về một sự đổi mới, mà ai trong c/ta cũng có thể kinh nghiệm được, mặc dầu gặp hoàn cảnh nào: Nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nầy được dựng nên mới, những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.” (God’s words in 2 Cor. 5:17 said: “Therefore, if anyone is in Christ, the new creation has come: The old has gone, the new is here!”)

> Đây có nghĩa là gì, và làm sao một người có được sự đổi mới này? (What does this mean and how can one experience this new creation?)

 

> Sự đổi mới này thật ra là một “định luật tự nhiên” của phần tâm linh, cho những “ai ở trong, không phải ở ngoài… Đấng Christ, thì người đó sẽ được dựng nên mới.” (This is a natural and spiritual law for those who are “in Christ” will become a new creation.)

> Bạn có nhận biết rằng - Con người c/ta sống lệ thuộc và bị đóng khung vào nhiều những định luật tự nhiên, để có thể tồn tại lâu dài được không? (Don’t you know that our life is limited, and confined within many natural laws… in order to survive?)

a) Chẳng hạn như định luật sức hút của trái đất, để c/ta không bị văng ra vào trong không gian vũ trụ, khi trái đất này đang quay xung quanh trục của nó với tốc độ gần 1,000 dặm một giờ. (For example, the law of gravitation that prevents us to be thrown into space, because the earth is currently spinning around its axis at the speed of 1,000 mph?)

b) Định luật tự nhiên của nông nghiệp, khi gieo một hạt giống xuống lòng đất, thì nó tự nhiên nẩy mầm, mọc cây, sanh nụ, nở hoa, ra trái, để duy trì tài vật cho con người và súc vật sống sót. (The natural law of agriculture, when you place a seed under the good soi, it will grow, producing fruits.)

c) Định luật tự nhiên của “gieo chi gặt nấy,” mà nếu một người biết gìn giữ sức khỏe, ăn uống điều độ, thể dục thể thao đều đặn thì tự nhiên sẽ có một sức khỏe tốt. (The law of “reaping of what you sow.” So, if you are eating healthy, sleeping well, exercising daily, you will have a healthy life & strong bodyIt’s the natural law of living.)

 

d) Thì cũng vậy về phần thuộc linh, nếu ai ở trong Đấng Christ… thì người đó sẽ được dựng nên mới. (So, it would be the same spiritually that Whoever believes Jesus – In Him” will become a new creation.)

 

 

II. Ở Trong Đấng Christ

 

> Như vậy Ở trong Đấng Christ có nghĩa là sao? (What does it mean to be “in Christ?”)

# Vài thí dụ cho thấy hình ảnh của sự “Ở Trong.” (Few pictures of being “in” something.)

a) Con cá bơi “ở trong” chậu nước, nếu nó ở ngoài chậu thì sẽ chết. (A fish is in the bowl of water – if it is outside the bowl – the fish will die;)

b) Mùa động vừa qua, vợ tôi cho một đôi bao tay; khi tôi mang vào, nghĩa là bỏ bàn tay mình vào “ở trong” bao tay thì thấy ấm ngay. (New gloves my wife gave me – as soon as I place my hands inside the gloves, I feel warm; outside – cold!)

 

1) Những ai “ở trong” Đấng Christ là người biết Chúa Giê-su có thật, và đặt lòng tin cậy “ở trong” Ngài (For those who are “In Christ” means… they know Jesus is real, and place their faith in Him)

> Người đó trước hết tin Đấng Tạo Hóa có thật, qua những sự sáng tạo lạ lùng mắt c/ta thấy xung quanh. (That person first believes there is a great Creator existed, because of all the creation he could see around him… is real.)

# Một trong những giáo lý căn bản của đạo Chúa được tóm tắt trong câu Kinh Thánh đầu tiên trong Sáng Thế Ký 1:1“Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời và đất,” trong đó có loài người c/ta. (One of the most basic doctrines is stated in the first verse in the Bible, Genesis 1:1 – “In the beginning God (Elohim) created the heavens and the earth,” and in it, here we are.)

> Đức Chúa Trời, Đấng Tự hữu & Hằng hữu đã dựng nên loài người để làm gì? (Why did God create us for?)

# Chúa đã dựng nên c/ta với mục đích có một mối liên hệ đời đời; nhưng vì tổ phụ loài người đã phạm tội trong vườn sự sống – ăn trái cấm, mối liên hệ này bị cắt đứt; Điều này cũng không làm Chúa bỏ đi ý định đời đời của Ngài, và vì yêu thương loài người sống chìm đắm trong bóng tối của tội lỗi – không lối thoát, Chúa đã hy sinh và sai Con một của mình đến thế gian để chết cứu chuộc tội lỗi, và hàn gắn lại mối liên hệ với c/ta. (God created us in His image so that we can know Him and experience an eternal relationship with Him. Even though, Adam and Eve sinned in the garden, God did not abolish His will and let us to perish, but He sent His Son into the world and died on the cross for our sins, so that our eternal relationship with God can be re-connected.)

> Mỗi khi c/ta thấy hình thập tự gía - nơi Chúa Giê-su đã đổ huyết, c/ta biết rõ được sự yêu thương và chương trình cứu chuộc của Chúa ban cho nhân loại. (Every time we see a picture of the cross, it is a proof of His love to save the world from the judgment and punishment of sins.)

 

> Người nào ở trong Đấng Christ là người tin Đức Chúa Trời đã sai Chúa Giê-su, Con Ngài đến làm Đấng Cứu Chuộc cho mình, để mình không còn bị đoán phạt đời đời trong hồ lửa địa ngục nữa, nhưng được vào ở trong nước thiên đàng của Chúa một ngày. (Whoever “in Christ,” must believe that God sent His Son to die for him, and knows that he will surely be spared of hell, but receiving the eternal life in Heaven one day.)

> Người ở trong Đấng Christ là người tin rằng Chúa Giê-su là con đường cứu rỗi duy nhất, y như lời Ngài đã tuyên bố có quyền năng trong Giăng 14:6“Ta là con đường, chân lý, và sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Ta.” (Those who are “in Christ” believes that Jesus is the only Way, the only truth, and the only power that can save them.)

 

> Làm sao c/ta biết Chúa Giê-su là Đấng Sáng Tạo quyền năng ở trong thân xác của con người. (How do we know that Jesus is the One - Who has the power to save us?)

 

a) Quyền năng của Chúa Giê-su được bày tỏ qua những phép lạ Chúa đã làm khi còn ở trên đất này; Có tất cả 34 phép lạ đã ghi chép kỹ càng trong 4 sách Tin Lành, mà có ai so sánh cho bằng Ngài không? (While Jesus was still on earth, He demonstrated God – the Creator’s power through many miracles – a total of at least 34 recorded in the 4 Gospels – that no one ever be compared with Him?)

 

b) Sự chết và sống lại có một không hai của Chúa Giê-su. (His virgin birth, sinless death, and resurrection are all “one of a kind.”)

> Ngài là trái đầu mùa của sự sống lại từ cõi chết và sự sống đời đời, chẳng hề chết nữa. (He is the first fruit of resurrection from death to life… and live forever more.)

 

c) Chưa hết, còn những lời Chúa Giê-su đã hứa về sự trở lại của Ngài một ngày mà chưa có ai hứa, để ban sư sống đời đời cho mọi kẻ tin… là có thật & chắc chắn sẽ xảy ra. (Not done yet, Jesus promises to return one day to give eternal life to those who believe in Him – this promise is true and trustworthy.)

# Korean Pastor Paul Yonggi Cho (~1 million members) said: “People end up in hell, not because they have more sins than others, but because they are “outside” of Christ,” meaning rejecting to believe in Christ. I want to rephrase this – “People enter heaven, not because they have no sin, but because they are “in Christ,” meaning they have accepted Jesus as their Lord & Savior… that God approves.

> Bạn có đang ở trong Đấng Christ ngay lúc này không? Có tin cậy Chúa Giê-su không? (Are you outside or in Christ at this moment? Do you believe Jesus?)

 

2) Không phải chỉ biết và tin Chúa Giê-su thôi, nhưng một người ở trong Chúa còn kinh nghiệm một mối liên hệ với Ngài mỗi ngày, khi sống vâng giữ theo những lời Chúa dạy dỗ trong Kinh Thánh. (More than just knowing Jesus, but whoever “in Christ” will experience a personal relationship with Jesus by obeying His teachings.)

> Lời của Chúa Giê-su trở nên những tiêu chuẩn, và là chân lý sống cho những ai ở trong Ngài. (Jesus’ words become living standards for those who trust Christ.)

> Đời sống của một người thật “ở trong” Đấng Christ có thể tóm tắt bằng 2 động từ đơn sơ mà thôi, đó là “Tin Cậy và Vâng Lời.” (The life of people “in Christ” can be summarized into 2 simple verbs: Trust and Obey.)

> Một người không thể nói tôi tin Chúa, nhưng sẽ không vâng lời làm theo những lời Ngài dạy dỗ. (You cannot say you believe Jesus and ignore His words and teachings.)

# Tôi không thể nói – tôi tin tô phở của bạn nấu rất là ngon, nhưng không dám ăn?

# Tôi không thể nói – tôi tin chiếc xe hơi mới đó rất an toàn, nhưng không dám ngồi vào để lái?

# Tôi tin tưởng công ti rất tốt, nhưng lại không bằng lòng chịu được mướn và làm việc cho họ?

> Thiết nghĩ vô số những người cơ đốc, họ đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật, nhưng ra về cảm thấy không được phước gì hết, không kinh nghiệm sự thay đổi nào hết… không phải là vì họ không nghe, không biết hay không hiểu, nhưng là vì họ chưa vâng giữ làm theo những điều mình đã nghe. (I believe that many Christians go to church every Sunday, but going home feeling liked I didn’t experience any blessing (It is a waste of time?) – why? Not because they do not hear, or understand the messages, but simply because they haven’t followed through & obeyed of what they have heard.)

# Câu chuyện ông chủ năm mới phát thưởng cho nhân công mình, và để cái bảng ở ngoài cửa phòng: “Ai bước vào trước 12 giờ trưa… thì sẽ được “lì xì.”

> Mọi người đi qua đi lại, nhìn thấy bản nhưng nghi ngờ không dám bước vào để nhận; Cuối cùng chỉ có một cặp vợ chồng gìa dám gõ cửa đi vào.

> Sau khi bước ra, người ta hỏi – ông chủ có phát thưởng, có lì xì thiệt cho ông bà không? “Có chứ, ông chủ thưởng vợ chồng c/tôi một số tiền về hưu - y như lời đã loan báo.”

> Ai nấy nghe vậy thì vội vã chạy vào để lãnh thưởng, nhưng đồng hồ vừa gõ đúng 12 giờ trưa, cửa ông chủ đã đóng, và kỳ hạn phát thưởng đã chấm dứt.

> Ai thật ở trong Đấng Christ, không phải chỉ biết Chúa mà thôi, nhưng còn sống hành động, vâng lời trên những lời Ngài đã hứa nữa. (Whoever is truly “in Christ,” that person doesn’t just know Jesus, but living a life, acting on and obeying His promises.)

 

 

III. Sự Đổi Mới

 

> Nếu ai tin cậy Chúa Giê-su và ở trong Ngài, thì điều tự nhiên người đó sẽ được đổi mới. (Whoever is “in Christ,” then naturally, that person will become a new creation, will be transformed.)

1) Thứ nhất, đây là sự đổi mới có gía trị trường tồn, chứ không phải như chiếc xe mới mua, thì vài năm sau là trở nên cũ kỹ/rỉ sét, máy mới xài thì đã bị hư hỏng, hay điện thoại mới mua, bây giờ lỗi thời không còn xử dụng được nữa… (This transformation first has an eternal value, and not liked buying a new car which will surely become old in few years?)

# Trong 2 Côrinhtô 4:18 Phaolô nhắc c/ta thấy được đặc tánh của những thứ có gía trị trường tồn là gì? – “bởi chúng ta không nhìn chăm vào những gì thấy được, nhưng vào những gì không thấy được, vì những gì thấy được chỉ là tạm thời, còn những gì không thấy được mới là đời đời bất diệt.” (In 2 Corinthians 4:18 Paul taught the nature of things that have eternal values – “So we fix our eyes not on what is seen, but on what is unseen, since what is seen is temporary, but what is unseen is eternal.”)

 

> Bạn có bao giờ bị ăn trộm chưa? (Have you been robbed before?)

# Có lần tôi đang ở sở làm việc, có một tên ăn trộm đập cửa kính vào nhà, đảo lộn mọi thứ và cuối cùng ăn cắp được 30$ mà còn mở tủ lạnh, lấy 1 lon coke uống nữa?

# Có lần tôi mất cái xe hơi đậu ngay trước nhà thờ qua một cuối tuần?

# Có lần vợ chồng tôi mất chiếc nhẫn cưới gía trị trên 5 ngàn đôla vì để trong bóp nằm trong xe hơi?

# Các cơn bão tố như là Katrina, hay những vụ cháy rừng (fire storms), động đất (earth quake), tai họa (calamaties)… bộ c/ta không ý thức được thực trạng này sao - mọi thứ vật chất ở ngoài, mắt c/ta thấy được, sờ được… thì “nay còn, nhưng mai có thể mất được?”

> Tôi mới giảng Chúa Nhật vừa qua về đề tài tương tự, thì người dì của tôi và ông chồng ngay ngày hôm sau là thứ Hai, bị người ta ăn cắp một khẩu súng và tiền bạc để trong xe truck của ông.

> Tôi mới giảng Chúa Nhật về sự mỏng manh của đời sống, người bạn thân trong sở làm gọi vào phòng ngày thứ Ba, xin cầu nguyện cho vì thận của ông bắt đầu hết hoạt động và đang đợi để thay.

> Những gì c/ta thấy được bên ngoài, kể cả thể xác này thì không tồn tại mãi; nhưng “Ở trong Đấng Christ” bởi đức tinsự không thấy được, thì có gía trị đời đời, bất diệt. (Being “in Christ” by faith is an unseen thing that lasts forever.)

 

2) Điều thứ hai, ý nghĩa của sự đổi mới là khi một người được “tái sanh/sanh lại” bởi quyền năng của Đức Chúa Trời trong Cứu Chúa Giê-su Christ, thay đổi từ chỗ là một kẻ tội nhân… trở thành con cái Chúa. (The second meaning of this transformation is that a person will be “born again,” meaning a change in the standing of no longer a sinner, but becoming a son or daughter of God.)

# Trong Kinh Thánh sách Phúc Âm Giăng 3:5 có chép về một người tên Nicôđem rất giàu có, đạo đức và đang có chức tước/chỗ đứng cao trọng trong xã hội. Có lẽ Nicôđem lúc đó tự nghĩ với sự khôn ngoan, quyền chức của mình đang có thì “dư sức” để vào được nước Đức Chúa Trời; nhưng nào ngờ Chúa Giê-xu phán cùng ông: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy (vào) được nước Đức Chúa Trời (In John 3:5 mentioned about a man, named Nicodemus – he was rich, religious, and has a lot of power. He may thought to himself that he could easily enter heaven one day, until Nicodemus met Jesus and heard Him saying – “Very truly I tell you, no one can see the kingdom of God… unless they are born again.”)

> Không phải làm ông ngạc nhiên thôi, nhưng đối với Nicôđem, đây là một khái niệm quá mới lạ - không thể xảy ra được, vì nếu đã là người lớn tuổi thì làm sao trở vào lòng mẹ của mình mà sanh ra lần nữa được? (With this concept, Nicodemus thought to himself – how is this possible? How could I go back to my mother womb and be born again?)

> Nicôđem đã không hiểu từ ngữ “sanh lại” đây không phải là sự thay đổi của thể chất bên ngoài, nhưngbởi quyền phép đã được cung cấp trọn vẹn qua sự giáng thế của Chúa Giê-xu Christ, sự chết đổ huyết của Ngài trên thập tự giá,sự sống lại vẻ vang sau ba ngày chiến thắng “thần chết” mà Thánh Linh Chúa làm một người tin… được “tái sanh” trở thành con cái Chúa. (He did not understand that Jesus did not talk about the physical birth, but the spiritual re-birth by the power of God in Christ Jesus to become a God’s child.)

 

> Vậy thì hễ bất cứ ai tìm kiếm và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-su thì người đó chắc chắn sẽ được Chúa đổi mới trở nên làm con cái Ngài, mà nếu là con thì c/ta chắc chắn sẽ hưởng cơ nghiệp của Cha mình, đó là sự sống lại và sự sống vĩnh cửu trong nước thiên đàng, là nơi mà Kinh Thánh… diễn tả chỗ đó sẽ không còn sự chết, không còn đau khổ, không còn nước mắt nữa, vì mọi sự cũ, hay hư nát… sẽ được trở nên mới hoàn toàn và tồn tại mãi. (So, for those who believe in Jesus, being in Christ, God’s power will transform them from sinners to God’s children, and if we are God’s children then it is naturally that we will receive God – our Father’s heavenly kingdom – where the Bible said would have no more suffering, tears, or even death, because God will make everything new.)

 

3) Điều thứ ba - Người ở trong Đấng Christ thì tự nhiên bắt đầu một nếp sống mới… những sự cũ sẽ trôi qua và mọi sự bắt đầu trở nên mới… ngay hôm nay, mỗi ngày càng hơn. (The Bible also said that whoever “in Christ” will also begin walking in a new life: old things will slowly pass away, and the new things will come, starting today.)

a) Những sự cũ đây là gì? Chính là xác thịt hay hư nát này và những tư dục của nó. (What are the old things? Things of this sinful flesh and its desires)

# Trong Kinh Thánh Galati có liệt kê một số những thứ cũ này, nào là: Tranh cạnh, nói xấu, kiêu căng, ích kỷ, tham lam, ganh ghét, ghen tương, thù hằn, dâm dục, nóng giận, say sưa, cờ bạc, thờ hình tượng, bói toán, phù phép… đủ những thứ nghiện ngập đang giam cầm cuộc đời của c/ta. (In Galatians 5 lists few of these sinful desires – “The acts of the flesh are obvious: sexual immorality, lust, impurity and debauchery; 20 idolatry and witchcraft; hatred, discord, jealousy, fits of rage, selfish ambition, dissensions, factions 21 and envy; drunkenness, orgies, greed, and the like…”)

> Những thứ cũ này cứ từ từ hủy diệt đời sống của c/ta, dẫn c/ta vào những hoàn cảnh đau thương, bất an, phá hoại những mối liên hệ tốt đẹp của c/ta với nhau. (These old things slowly destroy our life and our relationships with others)

> Nhưng ai “Ở trong Đấng Christ” sẽ là những kẻ chiến thắng được những thứ cũ kỹ hư nát này. (But for those who are “in Christ,” we will be the Overcomers of these evil forces.)

 

b) Chưa hết, những sự mới sẽ đến. (Not done yet - The NEW things will come for those “in Christ.”)

> Những sự mới này là gì? (What are the new things?)

# Trong Côlôse 1:10 có chép 2 điều mới mà ai ở trong Đấng Christ sẽ kinh nghiệm - “để anh chị em có thể sống xứng đáng cho Chúa, đẹp lòng Ngài trong mọi sự, kết quả bằng những việc phúc thiện, tăng trưởng trong sự hiểu biết Ðức Chúa Trời,” (In Colossians 1:10 says about 2 new things for those are in Christ will experience – “so that you may live a life worthy of the Lord and please him in every way: bearing fruit in every good work, growing in the knowledge of God,”)

 

i) Sự đổi mới bắt đầu như thế nào? Trước tiên bắt đầu bằng sự hiểu biết Chúa Giê-su là ai. (Transformation begins with the knowledge of God, knowing Who God is in Christ Jesus.)

> Sự hiểu biết Chúa mới có thể thay đổi tâm trí cũ kỹ của một người, và từ đó sanh ra những việc lành của sự công bình, và thật sự kinh nghiệm một nếp sống mới. (The knowledge of God would renew/transform our mind, that our life would begin to produce good works, and truly living a new lifestyle. But it must start at changing the mind.)

# Ngày xưa c/ta hay suy luận – “Nếu đám đông làm được thì đâu có sai;” nhưng khi ở trong Chúa, học biết ý Chúa, sẽ có những việc đám đông làm, c/ta sẽ không làm nữa, là vì bây giờ biết những điều đó đi nghịch với lời của Chúa dạy, những việc Chúa ghét… thì sự suy luận của c/ta đã được đổi mới rồi bắt đầu từ tâm trí mình. (Before believing in Christ, we use to reason – anything that the crowd does… then it is permissible; but now we know Jesus, there are certain things the crowd does, we no longer do, because God hates, and does not allow His chidren to do.)

 

> Làm sao một người có sự hiểu biết Chúa? (Where does a person gain the knowledge of God?)

# Bằng cách đọc và học lời Kinh Thánh, lời hằng sống của Chúa có thể đụng sâu vào một tấm lòng chai như đá. (By reading & meditating the BibleGod’s living words that His Spirit can use it to cut into our heart and change our mind.)

> Càng học Kinh Thánh, càng hiểu biết Chúa Giê-su hơn, đời sống càng thay đổi… giống như Chúa Giê-su càng hơn; trái lại nếu không chịu học, chẳng biết gì hết; sẽ chẳng kinh nghiệm sự đổi mới gì hết. (The more we study the Bible, the more we know God & Jesus, the more our life will be changed; in the opposite, if we don’t study God’s words, we would not know God, and we remain to be the spiritually old person, continuing to struggle with sins, not overcoming them.)

> Mục tiêu của những người “ở trong Đấng Christ” là phải muốn mỗi ngày mình trở nên giống Ngài hơn; nhưng nếu c/ta không chịu học Kinh Thánh thì làm sao c/ta biết Chúa Giê-su là ai mà trở nên giống Ngài được? (Our aim of those who are “in Christ” is to be Christ-likeness; but if we don’t study the Bible to know Who Christ is… then how can we achieve this goal?)

# Trở nên giống Chúa Giê-su nghĩa là c/ta có sự suy luận, lời nói và hành động… giống hệt như Chúa Giê-su hơn mỗi ngày.

 

ii) Làm sao c/ta tự biết mình đang được đổi mới trong Đấng Christ? (How do we know that we are changing. Our mind is renewing everyday?)

# Người ta thường nói: “Nhìn trái thì biết cây?” (Look at the fruits, we know the tree is strong and healthy.)

> Nếu c/ta ở trong Đấng Christ, Thánh Linh Ngài ở trong c/ta và Ngài sẽ trồng những trái đẹp của Chúa trong lòng c/ta mà sẽ sanh ra những việc lành phước thiện có ích cho những người xung quanh. (If we are in Christ – His Holy Spirit resides in us, and He will plant His fruits that produce good works that would bless others.)

# Trong Ga-la-ti 5:22-23 liệt kệ một số những trái đẹp mà Thánh Linh sẽ trồng trong đời sống của những người ở trong Đấng Christ – “… Trái của Ðức Thánh Linh là yêu thương, vui vẻ, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, 23 khiêm tốn, tiết độ…” (In Galatians 5:22-23 lists the 9 spiritual fruits that God’s Holy Spirit will plant in the life of those “in Christ” – “ the fruit of the Spirit is love, joy, peace, forbearance, kindness, goodness, faithfulness, 23 gentleness and self-control…”)

> Cho những ai “ở trong Đấng Christ” thì có một sự đổi chát quí gía của những điều hư nát, xấu xa, để có được những trái đẹp của Thánh Linh, mà từ đó sanh ra sự vui mừng, bình an và thỏa lòng; nhưng câu hỏi luôn là – “Bạn có muốn không thội?” (Whoever “in Christ” – we have a very good trade of old and sinful things… with the righteous fruits which produce joy, peace, and contentment – But the question is always: Do you want to?)

 

 

IV. You can be Transformed

 

> Để kết thúc sứ điệp sáng nay, tôi xin chia sẻ với quí vị 3 người đã kinh nghiệm được sự đổi mới này. (To end the sermon, I want to share with you about 3 people that may experience this transformation as they are willing placed themselves “in Christ.”)

 

1) Trong sách Kinh Thánh Luca 19 có chép về một người thâu thuế tên Xa-chê ở thành Giêricô.  Theo xã hội thời đó, những người thâu thuế được người dân Do Thái xếp vào thành phần “cặn bã” của xã hội, lý do là vì nhóm người này luôn ăn gian, tham nhũng, bóc lột dân chúng, qua việc đóng thuế; cho nên họ thường trở thành những kẻ rất giàu có. (In Luke 19, there was a tax collector named Zacchaeus living in Jericho. During that time, people hated tax collectors (just as many hate IRS). These tax collectors were considered terrible sinners, because they cheated taxes on people; as the results, they were very wealthy.)

> Nhưng khi Chúa Giê-su đến thành Giêricô và Xa-chê “gặp” được Ngài, thì ông đã thay đổi đời sống của mình. Kinh Thánh chép Xa-chê đã hứa: Tôi lấy nửa gia tài mình mà cho kẻ nghèo và nếu có làm thiệt hại ai, bất kỳ việc gì, tôi sẽ đền gấp tư (Until one day, Jesus came to Jericho, met Zacchaeus personally in his house and Jesus changed his heart such that “… Zacchaeus stood up and said to the Lord, “Look, Lord! Here and now I give half of my possessions to the poor, and if I have cheated anybody out of anything, I will pay back four times the amount.”) 

> Khi xã hội xua đuổi Xachê thì Chúa Giê-su lại tìm kiếm ông, và thay đổi cuộc đời của Xachê từ một kẻ lừa bịt, ăn gian, tham nhũng, trở nên một người chúc phước cho người khác. Đó chính là quyền năng đổi mới Chúa ban cho những ai ở trong Ngài. (When the society rejected Zacchaeus, Jesus accepted him, and changed him from a cheater to a blesser – that is the God’s power of transformation for those who are willing to be “in Christ.”)

 

2) Người thứ hai là sứ đồ Phaolô. (The second person was Paul.)

> Ngày xưa Phaolô có tên cũ là Saulơ – ông là kẻ khét tiếng và nóng cháy trong sự bắt bớ những người theo đạo Chúa Giê-su, vì lòng sốt sắng của tôn giáo mình có. (Paul, his old name was Saul – His old life was a vicious persecutor of Jesus’ church, because of his zeal for his old Jewish religion.)

> Saulơ có lần ra lệnh ném đá tử hình một chấp sự trong Hội Thánh Chúa, có tên là Êtiên, nhiều lần Saulơ đến các thành phố bắt những tín hữu theo đạo Chúa Giê-su, không kể đàn bà hay trẻ em bỏ vào ngục… cho đến khi Saulơ gặp chính Chúa Giê-su hiện ra trên đường đến thành Đamách, và cuộc đời của ông thay đổi 180 độ. (Saul once gave an order to execute a church deacon named Stephen, went many places, sought and put many Christians in jail, including women and children… until he met Jesus on the road to Damascus – his life was completely changed.)

> Tên của Saulơ sau này được đổi thành Phaolô, là người giáo sĩ đi truyền giáo ra khỏi xứ Giêrusalem, đem Tin Lành, giảng đạo Chúa cho thế giới… cho đến ngày hôm nay. (His name later was changed to Paul - who probably became the first missionary, travelled outside of Jerusalem, spreading the Gospel about Jesus to the world… until today.)

# Điều lạ lùng nữa là trong Kinh Thánh Tân Ước, c/ta có tất cả 27 sách thì Phaolô đã viết trên 12 sách trong đó, giúp ích xây dựng đức tin của con cái Chúa. (It is even more amazing, in the New Testament which has a toal of 27 books, Paul’s writings are already more than 12 books.)

> Trong Phi-líp 3:8-9 Phaolô tuyên bố chân lý của đời sống ông như sau – “Không những thế, tôi cũng xem mọi sự như lỗ lã, vì đối với tôi, được biết Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa của tôi, là điều cao quý vô vàn. Vì cớ Ngài tôi chịu mất tất cả; tôi xem mọi sự như rác rến để có thể được Ðấng Christ 9 và được tìm thấy trong Ngài, không nhờ vào sự công chính của tôi đến từ Luật Pháp, nhưng nhờ đức tin nơi Ðấng Christ, tức sự công chính đến từ Ðức Chúa Trời đặt nền tảng trên đức tin,” (Paul said something in Philippians 3:8-9 amazing about his transformed life – “What is more, I consider everything a loss because of the surpassing worth of knowing Christ Jesus my Lord, for whose sake I have lost all things. I consider them garbage, that I may gain Christ 9 and be found in him, not having a righteousness of my own that comes from the law, but that which is through faith in Christ—the righteousness that comes from God on the basis of faith.

 

3) Người thứ ba có thể kinh nghiệm sự đổi mới lạ lùng này chính là tôi và quí vị. (The third person could experience this amazing transformation… is you and me, if we are willing to be “in Christ.”)

> Chính bạn có thể được đổi mới ngay hôm nay, nếu bạn bằng lòng tin cậy Chúa Giê-su ngay giây phút này. (You can be transformed beginning today, if you believe Jesus right at this moment.)

> Bạn có muốn trở nên một tạo vật mới trong Đấng Christ không? (Do you want to become a new creation in Christ Jesus?)

> Tùy theo sự quyết định và chọn lựa của bạn tin cậy và vâng theo Chúa Giê-su mà thôi. (This would depend on each of our decision to trust and follow Christ.)

> Tôi không thể quyết định cho bạn được, tôi chỉ quyết định cho riêng mình mà thôi; nhưng tôi cầu nguyện cho bạn sẽ tự đến với Cứu Chúa Giê-su, tin cậy nơi Ngài, và kinh nghiệm hết tất cả những gì Chúa hứa ban cho bạn, bắt đầu ngày hôm nay… cho đến đời đời. (I can’t answer for you, only for myself, but I pray earnestly that you will come to trust Jesus today, and experience all the things that He promimes to give you today, and in eternity.)

 

> Bạn có sẽ đến tin nhận Chúa Giê-su không, để Ngài đổi mới bạn, để Ngài làm mới tâm trí bạn, trồng trong bạn những trái đẹp của Thánh Linh sanh ra những việc lành đẹp lòng Chúa, và rồi bạn sẽ kinh nghiệm một năm mới đầy phước hạnh, dự dật trong sự bình an, vui mừng và thỏa lòng, mà thế gian này không cho c/ta được. (Will you come to Jesus today – let Him transform you, let Him renew your mind, let Him plant new fruits in your heart that produce good works, and you will experience a blessed New year, full of peace, joy, and contentment that the world cannot give. Come to Jesus today.)

 

 

----------------------------- Lời Mời Gọi

 

> Quí vị có thích xài đồ mới không?

# Tôi tin rằng ai trong c/ta cũng khôn ngoan thích mua sắm đồ mới, những thứ có chất lượng giá trị tốt, bền, mới; chứ ai lại cứ dùng những thứ cũ kỹ, rỉ sét, không an toàn, phải không?

# Quí vị đi máy bay có thấy an toàn bước vào một chiếc máy bay mới đẹp, hay là một chiếc máy bay đã bị cũ kỹ, rỉ sét, động cơ có những tiếng động lạ?

 

> Còn phần tâm linh của c/ta thì sao? Bạn có muốn được đổi mới không?

> Làm sao đổi mới được, khi con người của c/ta qua yếu đuối… như cây sậy, một cơn gío nhẹ thổi qua cũng làm c/ta bị cảm cúm; Khi mà biết bao nhiêu những cám dỗ, tội lỗi, nghiệp ngập tràn ngập trong đời sống của c/ta, mà cứ càng ngày càng kéo mình đến chỗ hư vong, thất vọng, đau thương và bất an, thì làm sao được đây?

 

> Câu trả lời đó là c/ta chỉ phải nhờ cậy sức Chúa Hằng Hữu và Toàn Năng, là Đấng đã dựng nên c/ta, thì mới đổi mới c/ta được mà thôi.

> Đấng đã yêu thương và sai chính Con Một của mình đến thế gian, để cứu vớt c/ta ra khỏi quyền lực của tội ác, mà còn ban cho c/ta quyền phép được trở nên làm chính con cái của Ngài.

> Con Trời ấy chính là Cứu Chúa Giê-su, mà hễ ai bằng lòng “ở trong Ngài,” nghĩa là tin cậy Chúa đã đến, chết trên cây thập tự đổ huyết, chuộc tội cho mình, Chúa đã sống lại để ban cho mình quyền năng sống một cuộc đời mới, thì bạn sẽ được đổi mới… từ tội nhân trở nên làm con cái Chúa, và một ngày được hưởng nước thiên đàng đời đời nữa.

 

> Chúa Giê-su đã đến và hứa ban cho quyền năng đổi mới này, bạn chỉ cần lấy đức tin nhận lấy mà thôi.

 

-------------------

> Năm mới hãy tìm cho được phước mới, đó là nhận được sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời ban cho… bằng cách ngay hôm nay tiếp nhận Con Ngài… là Cứu Chúa Giê-xu vào đời sống mình.

> Phước lành này Chúa Giê-xu chúc phước c/ta như 1 món quà không đòi giá, không phải trả tiền, không mua được bằng những công đức cá nhân của mình... nhưng chỉ lấy đức tin mà mở lòng, miệng xưng ra nhận lấy.

 

> Chúa Giê-xu muốn chúc phước cho bạn điều này… và chính tôi cũng thật mong bạn mở lòng nhận lấy phước thật… ngay hôm nay!

> Mong bạn đừng bỏ lỡ cơ hội tối hôm nay.... hãy tiếp nhận Con Trời, Cứu Chúa Giê-su, tiếp nhận Thiên Phước... ngay trong những ngày đầu Xuân cho năm nay!

# Nếu tôi lì xì cho một trẻ em mà cháu lắc đầu không chịu nhận thì phong bì đó có sẽ thuộc của đứa bé không? Nếu Chúa ban cho bạn sự cứu rỗi mà bạn từ chối thì liệu bạn có sẽ được đổi mới không, hay cứ cũ hoài?

# Rôma 10:9-10(That if you confess with your mouth, "Jesus is Lord," and believe in your heart that God raised him from the dead, you will be saved. For it is with your heart that you believe and are justified, and it is with your mouth that you confess and are saved.) “Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi.”

> Mong quí vị mở lòng tin cậy Chúa Giê-su… và mở miệng tuyên xưng tiếp nhận Ngài cho chính mình!

 

> Người Việt c/ta có câu nói rất có gía trị: “Chớ để ngày mai”… ngày mai cơ hội sẽ không còn nữa… nó sẽ chấp cánh bay đi.

> Mong bạn đừng bỏ lỡ cơ hội hôm nay.... hãy tiếp nhận Con Trời, tiếp nhận Thiên Phước... được đổi mới ngay hôm nay, để sửa soạn sống một năm mới thật bình an và phước hạnh!