Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 51

Nhà Văn Phan Khôi

NHÀ VĂN PHAN KHÔI, NGƯỜI THAM GIA DỊCH Kinh Thánh RA VIỆT NGỮ

Như nhiều người trong chúng ta đã biết, Phan Khôi (PK) là nhà thơ đã khởi xướng ra phong trào thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỷ trước, nhưng có lẽ ít người biết rằng ông còn là một dịch giả đã góp phần tham gia dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ như chúng ta đã có ngày nay nữa.

Để góp thêm một tiếng nói nhỏ của mình về con người đặc biệt nầy, tôi muốn viết đôi điều về PK, như là một bài khảo cứu nho nhỏ về nhà văn, nhà thơ, nhà báo, một dịch giả, mà tơi rất yu thích, như là một sự tri ân những người đi trước đã có đóng góp vào sự phát triển của đạo Tin Lành ở Việt Nam trong vòng một trăm năm đã qua.

I./ Phan Khôi – vài nét về tiểu sử và văn nghiệp:

Phan Khôi, hiệu Chương Dân, Tú Sơn (Tout Seul), bút danh Thông Reo, Tân Việt, Khải Minh Tử, sinh ngày 06 –10 -1887(nhằm ngày 20. 8. năm Đinh Hợi) tại làng Bảo An, Huyện Diên Phước, Tỉnh Quảng Nam (nay là làng Bảo An, Xã Điện Quang, Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam.) Cha là Phó bảng Phan Trân, từng là Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hoà), mẹ là bà Hoàng Thị Lệ, con gái Tổng đốc Hoàng Diệu. Cụ Phan Trân có hai người con, một trai là Phan Khôi và một gái là Phan Thị Diệm, sinh năm 1890. Năm 27 tuổi, PK cưới vợ là cô Lương Thị Tuệ, 19 tuổi, con gái đầu lòng của cụ cử nhân Lương Thúc Kỳ, người làng Hà Tân, Xã Đại Lãnh, Huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam. Bà sinh cho ông được 8 người con (4 trai, 4 gái). Năm 1935, ông lấy thêm người vợ hai tên là Nguyễn Thị Huệ, sinh năm Tân Hợi (1911), sống ở Hà Nội, nhưng người gốc Xã Xuân Giao, Huyện Xuân Thuỷ, Tỉnh Nam Hà. Theo nhà văn Phan Thị Mỹ Khanh (con gái của PK, hiện đang sống tại Đà Nẵng – NV), cho biết: “Dì có với cha tôi ba người con” (1). Như vậy, PK có cả thảy là 11 người con (6 trai, 5 gái).

PK qua đời vào ngày 16. 01. 1959 (nhằm ngày mồng Tám, tháng Chạp, năm Mậu Tuất), tại một căn nhà ở Phố Thuốc Bắc, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.

PK la học trò của chí sĩ Trần Quý Cáp, của thầy Phan Thành Tài, thầy Lê Hiên. Ngay từ nhỏ, Phan Khôi đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi và hay ... lý sự.

Nam 1906, lúc vừa 19 tuổi, thi Hương tại Huế và đậu Tú tài Hán học, nên thường được gọi là Tú Khôi. Năm 1906, ra Hà Nội học tiếng Pháp. Lúc đương thời, Phan Châu Trinh rất mê tài học của ông và nói với mọi người rằng: Quảng Nam sẽ có hai tiến sĩ xuất sắc là Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác. Lời tiên đoán ấy của Phan Châu Trinh tuy không thành sự thật, nhưng xét trên thực tài thì Phan Khôi là một người xuất sắc về nhiều lĩnh vực của học thuật. “Từ một nhà hoạt động duy tân, nhà báo, nhà thơ, nhà lý luận... Ở bộ môn nào ông cũng tỏ ra rất sắc sảo độc đáo mà có lẽ một vị Tiến sĩ cũng khó bắt kịp tài năng, bút pháp và lý luận của ông.” (2). Năm 1908, phong trào Duy Tân bị khủng bố, ông bị bắt và bị giam tại Hội An cho đến năm 1911 (3) mới được trả tự do. Ra khỏi tù, ông cưới vợ và mở lớp dạy chữ Hán tại nhà. Năm 1916, ông ra Bắc, xuống Hải Phòng làm Thư ký cho công ty Bạch Thái Bưởi. Năm 1918, ông vào làm việc cho tạp chí Nam Phong của Phạm Quỳnh. Sau một thời gian, bất đồng ý kiến với Phạm Quỳnh, ông vào Sài Gòn viết cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn. Sau đó, lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh. Để rồi sau đó, lại trở vô lại Sài Gòn và tung hoành ngòi bút một cách mạnh mẽ chưa từng thấy trên một loạt những tờ báo nổi tiếng thời bấy giờ như Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Trung Lập, Phụ Nữ Tân Văn từ các năm 1929 – 1931. Nhưng rồi sau đó (lại rồi sau đó), người ta lại thấy ông ra Hà Nội làm Chủ bút tờ Phụ Nữ Thời Đàm. Rồi sau đó (cũng lại rồi sau đó), ông vào Huế và viết cho tờ Tràng An, rồi làm Chủ bút tờ Sông Hương. Đến năm 1939, người ta thấy Phan Khôi xuất hiện ở Sài Gòn, nhưng không phải để viết báo như những lần trước nữa mà là để dạy học.

Sau 1945, ong được mời ra Hà Nội tham gia kháng chiến với cương vị Nhà văn hóa. Năm 1954, ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam , ông cũng từng tham gia làm giám khảo trong các giải văn học của Hội Nhà văn Việt Nam.

Nha thơ Lê Minh Quốc quả quyết rằng: “Ngoài cụ Huỳnh Thúc Kháng, nếu chỉ chọn lấy một nhà báo tiêu biểu nhất của xứ Quảng trong thế kỷ XX, tôi sẽ chọn lấy Phan Khôi. Đó là một hình ảnh kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại.” (4). Thật vậy, về phương diện báo chí, PK là một nhà báo có lý luận sắc bén mang đậm nét tính cách lý sự của người Quảng Nam. Nhà báo đòi hỏi phải viết gãy gọn, tư tưởng rõ ràng mới thuyết phục người đọc. PK có đầy đủ những điều đó. Nhà thơ Nguyễn Vỹ nhận xét rằng: “Phan Khôi nói thẳng thắn những điều ông suy nghĩ, viết thẳng thắn những lời ông nói. Cho nên tư tưởng của ông rất chân thật, văn của ông rất hấp dẫn, và ảnh hưởng sâu rộng trong giới thanh niên.” (5). Có thể nói chưa thấy có nhà báo nào của Việt Nam bạo dạn, sẵn sàng khởi xướng và tham gia vào nhiều cuộc tranh luận báo chí sắc bén như PK, để lại tiếng vang lớn trên văn đàn báo chí nước nhà một thời như là một dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Có thể kể ra đây những cuộc tranh luận thú vị ấy như: Cuộc tranh luận với học giả Trần Trọng Kim về quyển Nho giáo; cuộc tranh luận với Phạm Quỳnh về Truyện Kiều; cuộc tranh luận với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, với Nguyễn Tiến Lãng về các đề tài luân lý và đạo đức của người Việt.

Giao sư Thanh Lãng có một nhận định về tài lý luận trong cách viết báo của PK khá xác đáng như sau: “Lý luận rất rắn mà không đài các, đả kích đến nơi mà không kiêu căng, cho nên thường người bị đả kích không thể giận ông. Mà ông cũng chẳng để cho họ có thì giờ mà giận. Cái hồn nhiên của ông làm cho cả thù địch của ông nếu không ghét ông thì cũng nể ông.” (6).

Ve phương diện văn chương, Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan cho rằng PK là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái Nho học. Quả thật vậy, PK là nhà thơ được mệnh danh là người khởi xướng phong trào thơ mới, dù ông khiêm tốn không nhận điều đó. Với bài thơ Tình già (7) được đăng trên tờ Phụ Nữ Tân Văn, số ra ngày 10. 3. 1932, PK đã đem một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (chữ của PK-NV) và gây nên một phong trào bàn tán về văn chương sôi nổi vô cùng thời bấy giờ. Tình già đúng là một quả bom nổ giữa làng thơ Việt Nam vào thập niên ba mươi của thế kỷ 20. “Và PK trở thành người cắt băng khai mạc thời đại mới trong thi ca.” (8) Chỉ với bài thơ nổi tiếng nầy thôi, PK cũng đủ để xứng đáng là một thi nhân đích thực của nền thi ca hiện đại nước ta vậy.

Gia san văn chương của PK để lại cho chúng ta (được in thành sách) dù không phải là nhiều lắm, nhưng cũng đủ để cho chúng ta đọc và khâm phục tài năng văn chương, báo chí của ông. Các tác phẩm của PK được in thành sách gồm có: Bàn về tế giao (1918), Đô hạ tạp ký (1918), Chuyện các bậc tiền bối (1919), Học thuyết và đạo đức Khổng Phu Tử (1924), Giáo dục nghiên cứu (1919), Nam Âm thi thoại (1919), Tiếng An Nam Đàng Trong với Đàng Ngoài, Chương Dân thi thoại (1936) Trở vỏ lửa ra (1939), Việt ngữ nghiên cứu (1956), Tình già (thơ-1932), Tuyển tập Tiểu thuyết Lỗ Tấn (2 tập)... Ở đây, chỉ nói đến những tác phẩm của PK đã được in thành sách thì không nhiều, nhưng nếu nói đến những bài viết, bài báo của PK đã đăng ở các báo thì vô số kể, trong đó có rất nhiều bài hay, sâu sắc, đọc đáng đồng tiền bát gạo, nhất là những bài nghiên cứu về tiếng Việt, những bài phê bình văn học, học thuật, những bài tranh luận của ông với các nhà báo, nhà văn khác trên văn đàn thời bấy giờ.

Nhan xét về văn nghiệp của PK, nhà thơ Lưu Trọng Lư cho rằng PK “quả là người viết quốc ngữ đúng đắn hơn hết, yêu chữ quốc ngữ với tất cả sự từng trải của một người đã sống khắp ba kỳ, quen thuộc với những lối phát âm, với những thổ ngữ ... ” (9). Còn giáo sư Hoàng Tuệ thì viết rằng: “Phan Khôi là nhà văn hoá rất quý trọng tiếng Việt, quyết tâm bảo vệ ngôn ngữ dân tộc.” (10). Nhà thơ Nguyễn Vỹ thì nhận xét về PK là “một trong các nhân vật nổi tiếng nhất trên văn đàn Việt Nam với ngọn bút sắc sảo có một không hai... Chính ông là người đã mở ra một chân trời mới cho văn chương Việt Nam nói chung và Thơ mới nói riêng.” (11). Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng thì: “Sự nghiệp sáng tác và trước tác của Phan Khôi có một chỗ đứng vinh quang trong thời kỳ chữ Quốc ngữ bắt đầu có tư thế trên văn đàn Việt Nam.” (12).

Noi về PK, cũng không thể không nhắc tới mấy câu thơ (có thể tạm gọi là như thế) được xem như là câu cửa miệng của PK mỗi khi đứng trước những khó khăn, những bất trắc của đời sống, thể hiện được thái độ bình tĩnh, ung dung tự tại của mình. Có thể nói những câu thơ nầy của ông khắc hoạ được tính cách Quảng Nam của nhà thơ một cách khá rõ nét:

Lam sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao.

Những câu thơ nầy được truyền tụng trong nhân dân rất rộng rãi và có khá nhiều người biết, thuộc lòng, chẳng khác nào như những câu ca dao vậy.

II./ Phan Khôi – Người góp phần dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ:

Ban Kinh Thánh mà hầu hết những tín hữu Tin Lành Việt Nam của chúng ta đã sử dụng trong vòng mấy chục năm qua, kể từ năm 1926 là lần xuất bản đầu tiên cho đến nay và chắc cũng sẽ còn dùng cho đến lâu dài về sau nầy nữa, đó chính là bản dịch mà nhà văn PK đã góp phần rất lớn trong đó.

PK dịch cuốn Kinh Thánh của chúng ta thời bấy giờ mất bao nhiêu thời gian? Theo Trần Mạnh Thường cho biết: “Ông lại ra Bắc ở Hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh, chữ Nho ra Quốc ngữ. Ông dịch khá tốt. Làm được 1 năm, ông lại vào Nam kiếm việc.” (13) Bà Phan Thị Nga (vợ của nhà văn Hoài Thanh, đặc phái viên của báo Ngày nay do Nhất Linh chủ trương) cũng cho biết về PK khi dịch Kinh Thánh cho hội Tin Lành, “làm được một năm ông lại thôi.”. Nhà báo Vu Gia cho rằng chi tiết nầy không đúng, “vì với thời gian ấy, Phan Khôi không tài nào dịch xong bộ sách ấy” (14). Và ông (VG-NV), qua sưu tầm tư liệu về PK, thì phát hiện ra rằng “Phan Khôi dịch cuốn Kinh Thánh trong khoảng thời gian 5 năm”(15). Trên Phụ nữ Tân văn, số 74, ngày 16. 10. 1930, (sau khi Mục Sư W. C. Cadman, chủ nhiệm báo Thánh Kinh báo lúc bấy giờ có gởi biếu PK , khi báo ra số đầu tiên) PK có viết bài “Giới thiệu và phê bình Thánh kinh báo”, trong đó có đoạn: “Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà mục Sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925).”

Ông Nguyễn Thanh Xuân viết: “Từ năm 1919, sau khi dịch bảy sách trong Tân ước, vợ chồng W. C. Cadman được sự giúp đỡ của văn sĩ Phan Khôi (1887 – 1960) dịch Cựu ước ra quốc ngữ và đến năm 1925 thì họ hoàn tất.” (16) Như vậy, để có được bản Kinh Thánh tiếng Việt toàn bộ cả Cựu Ước và Tân Ước cho con dân Chúa chúng ta đọc như ngày hôm nay, Chúa đã dùng quý tôi tớ Chúa, cũng như dùng nhà văn, dịch giả Phan Khôi thực hiện trong vòng 5 năm dài có hơn. Thật là cả một công trình đáng trân trọng lắm vậy. Mục Sư Lê Hoàng Phu cho biết: “Gia đình Cadman tiếp tục công tác dịch Kinh Thánh năm 1919, lần nầy với sự cộng tác của ông Phan Khôi, một học giả và văn sĩ lỗi lạc, đã ở với họ trong 10 năm. Họ hoàn tất Cựu Ước năm 1925, sau khi đã duyệt xét kỹ lưỡng bởi các văn sĩ, mục sư, giáo sĩ, kể cả Olsen, toàn bộ Kinh Thánh đã được in tại Hà Nội năm 1926. Vừa khi cuốn Kinh Thánh Việt Nam in xong, ông Phan Khôi nhận chức Chủ nhiệm một tờ báo quan trọng “với giá lương gấp bội hơn lương có thể trả cho ông để dịch Kinh Thánh”. Chẳng bao lâu, họ Phan khởi xướng “phong trào Thơ mới” đã làm rung chuyển cả những truyền thống văn học từ bao thế kỷ ở trong xứ và cũng phóng ông lên địa vị lãnh đạo các đoàn thể văn học. Giá trị của công việc ông về bản dịch Kinh Thánh năm 1926 vẫn còn được các độc giả Việt Nam ưa thích.” (17)

Ve giá trị của bản dịch Kinh Thánh năm 1926, có một số người nhận xét rằng: Nhà báo Vu Gia viết: “Nhìn chung, đây là bản dịch tốt. Nhưng nói như vậy, chẳng khác nào khen phò mã tốt áo, bởi thời gian đã khẳng định bản dịch ấy rồi.” (18). Nhà văn Tô Hoài nhận xét: “Kinh Thánh cả Tân ước, Cựu ước của hội đạo Tin Lành , người ta bảo ông(PK-NV) dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng có đọc. Có chương Nhã ca lời rất thơ” (19). Trong tác phẩm Người Quảng Nam, nhà thơ Lê Minh Quốc viết về việc PK dịch Kinh Thánh như sau: “Giai đoạn này, ông đã làm một việc khó ai ngờ là sử dụng bản chữ Hán đối chiếu với bản chữ Pháp để dịch Kinh Thánh cho hội Tin Lành. Bản dịch của ông câu cú gẫy gọn, trong sáng, văn phạm chuẩn mực, chứng tỏ một trình độ học vấn uyên thâm.” (20)

Đó là nhận xét của những người ngoại đạo về bản Kinh Thánh xuất bản năm 1926 của chúng ta. Còn với những tín đồ Tin Lành Việt Nam mấy mươi năm qua cho đến ngày nay, trong đó có tôi, thì sao? Tôi tin chắc rằng bản Kinh Thánh Việt ngữ xuất bản năm 1926 đã ăn sâu vào trong tâm khảm của con dân Ngài tại Việt Nam, có nhiều người thuộc nằm lòng khá nhiều câu Kinh Thánh theo bản dịch ấy đến nỗi khó có thể thay đổi đi được trong tâm họ. Thậm chí có không ít những người Việt Nam tin Chúa quả quyết rằng chỉ có bản dịch Kinh Thánh năm 1926 là số một mà thôi, không bản dịch nào hơn cả và rồi họ chỉ dùng độc bản dịch đó để đọc, để học, để chia sẻ, để giảng dạy. Theo tôi, làm như thế là cực đoan, thái quá. Nhưng nói như vậy để cho thấy rằng bản dịch Kinh Thánh năm 1926 đã có một chỗ đứng rất vững vàng trong lòng rất nhiều người tin Chúa tại Việt Nam trong gần một thế kỷ trôi qua. Tạ ơn Chúa! Nói như vậy là cũng để tỏ lòng biết ơn những bậc tiền nhân của chúng ta, trong đó có nhà văn, dịch giả Phan Khôi, dịch giả Trần Văn Dõng, là hai người ngoại đạo được Chúa dùng để góp phần dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ.

Ban thân tôi, nói thật lòng, cũng rất yêu mến bản dịch năm 1926, vì nó đã theo mình quá lâu rồi, mặc dù tôi vẫn sưu tầm, tham khảo, tra cứu nhiều bản dịch khác để học và để giảng Kinh Thánh cho tín đồ với mục đích tối hậu là làm sao cho tín đồ, cho người khác dễ hiểu được lời Chúa và hiểu một cách đúng đắn. Nhưng dầu sao, chúng ta cũng phải công nhận điều nầy, bản dịch năm 1926, cho đến nay, nhất là với thế hệ lớn lên trong thời đại toàn cầu hoá nầy, đã có nhiều chữ khó hiểu với họ, hơn là những bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ mới được xuất bản trong vòng gần hai thập niên trở lại đây.

Nhan xét về bản dịch năm 1926, theo một Giáo sư chuyên khoa Cựu Ước, người đã viết cuốn Bản Thảo Phiên âm Sách Sáng Thế Ký, thì: “Bản Kinh Thánh Việt ngữ của chúng ta trong quá trình phiên dịch đã phải nhảy qua 3 nhịp cầu: Từ bản nguyên ngữ tiếng Hibálai và Hy Lạp, sang tiếng Anh rồi mới đến tiếng Việt, được đối chiếu, bổ túc với bản dịch ra tiếng Pháp. Khi dịch Kinh Thánh ra tiếng Việt, họ(các Giáo sĩ tiền phong của Hội Phước Âm Liên Hiệp Mỹ– NV) đã phải chuyển từ 2 ngoại ngữ Anh và Pháp, do đó, quyển Kinh Thánh tiếng Việt của chúng ta không được dịch trực tiếp từ nguyên ngữ Hibálai và Hy Lạp mà được dịch từ hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp. Khi biết được thực trạng như vậy, chúng ta sẽ thấy bản Kinh Thánh Việt ngữ có nhiều điểm yếu: 1/ Phải nhảy qua 3 nhịp cầu ngôn ngữ. 2/ Các vị Giáo sĩ tiền phong khả kính của chúng ta rất yêu mến Chúa và yêu mến đồng bào Việt Nam. Họ phải hy sinh rất nhiều khi phải sang đây để truyền giáo, nhưng hầu hết trong số đó không phải là những học giả uyên bác chuyên về nguyên ngữ Hibálai và Hy Lạp, họ chỉ thạo tiếng Anh qua bản KING JAMES, tiếng Pháp không rành, tiếng Việt đang học, chỉ mới có thể nói thông thường, khi đi vào Kinh Thánh Thần học lại có nhiều từ chuyên môn, nên họ đã gặp rất nhiều khó khăn khi phiên dịch quyển Kinh Thánh tiếng Việt của chúng ta. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều điểm dịch không được chính xác với nguyên ngữ và Thần học, Chúa cũng đã dùng chính bản dịch này trên nửa thế kỷ nay để cứu tội nhân, trong đó có chúng ta.” (21)

Với Giáo sư Phạm Quang Tâm trong Khảo luận “Những vấn đề còn lại trong việc phiên dịch Thánh Kinh ra Việt ngữ” thì có nhận xét giữa bản dịch năm 1926 (còn gọi là bản Cadman-NV) với các bản dịch mới đây sau khi đưa ra so sánh các câu Kinh Thánh trong Giăng 2: 4 và II Cô rinh tô 9: 7 giữa bản Cadman và các bản dịch mới): “Chúng ta thấy các bản dịch mới trôi chảy và xuôi tai hơn. Đó là điều mỗi chúng ta nên suy nghĩ khi nhận định về tính cách hữu dụng của các bản dịch hiện đại. Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy những chữ cổ như “vả, bèn, vì chưng, chỉn” thì hiện nay không còn thông dụng trong ngôn ngữ hằng ngày nữa. Vì thế việc hiện đại hoá các bản dịch không những cần thiết mà còn là điều khẩn cấp. Trong khi Anh ngữ có hơn 115 bản dịch và các bản mới tiếp tục ra đời với nhịp độ trung bình 5 năm một bản thì đến giờ nầy chúng ta chỉ mới có khoảng 6-7 bản dịch để tham chiếu mà thôi(Bản Cadman (1926), Bản Tân Ước Nhuận Chánh (1958), Bản Diễn Ý (1980), Bản Dịch Hiện Đại (2002) của Mục Sư Đặng Ngọc Báu, Bản Dich Mới (2002), Bản Tân Ước Phổ Thông (2002), Bản Thi Ca Thánh Kinh (2006) - NV). Quả là một con số khiêm nhượng” (22)

Theo toi, chúng ta cần có những bản dịch mới (kể cả những bản dịch của các anh em Công Giáo) để tham khảo cùng với bản dịch năm 1926 hầu cho việc học hỏi và giảng dạy Kinh Thánh được tốt đẹp hơn, dễ hiểu hơn cho thật nhiều người. Vả lại, mỗi chúng ta đều biết rất rõ điều nầy, không có bản dịch nào là toàn hảo cả, vì con người vốn bất toàn. Thiết tưởng thái độ chỉ chấp nhận một bản dịch năm 1926 và xem thường các bản dịch khác hoặc ngược lại đều là thiển cận, cực đoan, không nên có trong vòng những người Việt Nam tin nhận Chúa.

Noi tóm lại, mặc dù bản dịch năm 1926, cho đến nay, có những chỗ chưa sát với nguyên bản, hay có những chữ khó hiểu cho thời đại ngày nay, như đã nói ở trên, thì nó vẫn là bản dịch rất đáng trân trọng cho chúng ta trong lịch sử với chiều di hơn 100 năm đạo Cha đ được truyền đến Việt Nam. Là những người hậu sinh, chúng ta không thể nào không biết ơn các bậc tiền bối đã có nhiều công khó để cống hiến cho chúng ta một bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ như chúng ta đã có ngày nay, trong đó không thể không nhắc đến tên tuổi của nhà văn, dịch giả Phan Khôi.

Một điều tưởng cũng nn bn tới ở đy l, cĩ khơng ít người thắc mắc tại sao khi dịch Kinh thnh ra Việt ngữ, PK lại khơng phin m tn Cha Gi-su ra tiếng Việt cho mọi người dễ đọc, mlại vẫn giữ nguyn bằng tiếng Anh lGiê-xu. Nhnghin cứu văn học Nguyễn TCc ở Hoa Kỳ cho biết: “Cĩ một điều cần phải nhấn mạnh ltuy Phan Khơi lngười dịch chính nhưng vai trị của bCadman khơng phải lthiquan trọng. Bằng cớ l, đng như Phan Khơi nĩi, bCadman phải quyết định những vấn đề quan trọng lin quan đến thần học. Chính blngười giữ nguyn chữ “Giê-xu” trong khi Phan Khơi vẫn gọi l“Cha Gi-giu” như trong bi viết cho Thần Chung của ơng. Thời đĩ, “Cha Gi-giu” lmột chữ thường được người khơng đạo dng hơn. Phan Văn Hm, trong Ngồi tKhm lớn (trang 202) cũng viết y như vậy.” (23)

III./ Vài cảm nhận cá nhân về Phan Khôi:

Ve nhà văn PK, dù ông là người ngoại đạo, nhưng chúng ta cảm tạ Chúa, trong niềm tin, chúng ta tin rằng Ngài đã dùng ông để góp phần dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ cho dân tộc Việt Nam chúng ta được đọc Lời Hằng Sống của Ngài, nhất là những tín hữu Việt Nam của Chúa Giê-xu. Trong quá trình tra cứu tài liệu để viết bài nầy, tôi nhận thấy rằng, PK dù là người ngoại đạo, nhưng là một người ngoại đạo có cảm tình với Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giê-xu. Một bằng chứng là theo nhà báo Vu Gia cho biết trên Phụ nữ Tân văn, số 77, ngày 6-11-1930, Phan Khôi có viết: “Thuở nay tôi thấy có Giê-xu Christ nói tinh một cách quả quyết mà thôi; đố ai tìm ra được một lời nào của ngài mà đã dùng cách hồ nghi. Chẳng những dùng cách quả quyết tầm thường, mà mỗi một câu một lời của ngài, hình như ngài lại còn dùng đinh mà đóng, dùng dây mà cột cho càng thêm chắc nữa. Giảng dạy cho môn đồ, ngài hay dùng luôn câu mép này: “Quả thật, ta nói cùng người (En verité, je vous le dis); có chỗ ngài còn lặp đi lặp lại, dùng đến hai lần “Quả thật”. (24). Những lời ấy cho thấy ông rất ngưỡng mộ Chúa Giê-xu, ông rất kính trọng Ngài.

Mot dẫn chứng khác, trong một bài viết của ông có nhan đề “Cách đặt quán từ” đăng ở Phụ nữ Tân văn, số 72, ra ngày 2. 10. 1930, có đoạn ông viết: “Vào khoảng năm 1920, tôi ở Hà Nội, khi nói chuyện với một nhà văn, tôi đem hai chữ ấy mà hỏi ông ta. Tôi hỏi: “chữ những và chữ các giống nhau hay là khác nhau? Nếu khác nhau thì khác nhau ở chỗ nào? Làm văn thì khi nào nên dùng chữ những, khi nào nên dùng chữ các?

“Ông ấy trả lời: “Đại để hai chữ giống nhau, khi nào nói các nghe xuôi thì nói các, khi nào nói những nghe xuôi thì nói những.

“Số là ông nầy vừa mới diễn thuyết ở hội quán kia. Bấy giờ có Trời mở trí cho tôi (NV gạch dưới) hỏi tiếp ông ta một câu rằng: “Sao bữa trước, khi ông diễn thuyết, ông nói “Thưa các ngài”? “Ông ta đáp: “Ấy, tôi đã nói, khi nào nói các nghe xuôi thì nói các. Nói “Thưa các ngài” nghe xuôi thì nói “Thưa các ngài” chứ sao?”

“Tuy ông nói vậy chứ hình như câu nói của tôi cũng đã đánh thức ông mạnh lắm. Đã đành nói các nghe xuôi hơn, song tại làm sao chỗ ấy nói các lại xuôi hơn, mà còn nói những lại không xuôi?”

“Kẻ học đời nay có một cái bí quyết để tìm thấy chân lý, ấy là gặp bất kỳ sự gì cũng phải hỏi: “Tại làm sao?” Nếu hễ nghe các xuôi thì viết các, nghe những xuôi thì viết những, thôi thì chẳng còn thứ văn tự nào đặt ra văn pháp làm chi nữa.”

“Nhờ sự bàn luận tình cờ mà nhất là nhờ ở câu hỏi cuối cùng của tôi đó, mà tôi nghiên cứu lần lần, tìm ra những nguyên tắc của cách đặt quán từ. Những nguyên tắc ấy tìm được rồi, khi tôi viết văn, chỗ nào nên dùng các, chỗ nào nên dùng những, tôi thấy là nhất định, không còn lộn xộn như trước nữa.”

“Tôi làm sự nghiên cứu ấy theo phương pháp quy nạp. Bắt đầu hết, nhân hai cái danh từ “các ngài” và “những ngài” đó, tôi hiểu rằng khi nào có một số nhiều nhất định (déterminé) ở trước mặt mình, như một số thính giả trước mặt người diễn thuyết thì phải dùng chữ các, không được dùng chữ những. Rồi tôi lập ra một cái giả thuyết như vầy: Chữ các dùng trên danh từ nào số nhiều mà nhất định, hoặc đếm được, hoặc không thấy được nhưng đếm được. Còn chữ những dùng để trên danh từ nào số nhiều mà không nhất định, không đếm được, không thấy được, không chỉ ra được.” (25). Đọc đọan văn trên, ta thấy dù chưa tin nhận Chúa, nhưng trong thâm tâm ông vẫn tin có Trời vậy (“có Trời mở trí cho tôi”). Trong bài thơ “Tình già” nổi tiếng của ông, ta cũng thấy ông xác nhận quyền của Đức Chúa Trời (mà ông gọi là ông Trời) trong vấn đề xây dựng vợ chồng:

“Thương được chừng nào hay chừng nấy,chang qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!”

PK dù chưa tin nhận Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, nhưng những nét tính cách của con người ông, quan niệm sống của ông rất gần với đạo Chúa. Theo nhà văn Phan Thị Mỹ Khanh thì PK cực lực phản đối thói mê tín dị đoan. Bà Mỹ Khanh kể: “Có một lần, lựa lúc cha tôi vắng nhà, mẹ tôi nhờ bác thông gia xem cho một quẻ gia sự. Bác xem xong, làm cho một tấm bát quái treo ở gian giữa nhà trên, đại khái có tác dụng giúp cho gia đạo yên vui, làm ăn nên nổi... Cha tôi về, thấy tấm bát quái, bắt lấy xuống ngay và hỏi ai là người bày ra việc nầy. Khi được biết là do ông thông gia, ông nói: “Mạ bay khéo nghe lời, thế sao ông ấy không làm cho nhà ông ấy giàu đi?” (26) Về ngày giờ, ông cho rằng ngày nào cũng giống nhau, không có ngày tốt ngày xấu, giờ tốt giờ xấu. Bà Mỹ Khanh cũng cho biết PK là một người khẳng khái, thẳng thắn và ngay thật, ông luôn luôn tự chủ, tự trọng, ghét thói luồn cúi, theo đuôi, bợ đỡ, xu nịnh cũng như ỷ thế cậy quyền.

Đạo Tin Lành đến Việt Nam với cái mốc được ấn định là năm 1911 và vùng đất Quảng Nam chính là cái nôi để đạo của Chúa được hình thành và phát triển, lớn mạnh cho đến nay gần tròn một trăm năm. Quả đúng là “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm”. Đó là một cái phước lớn mà Chúa đã dành cho vùng đất Quảng Nam yêu quý của chúng ta. Rồi Chúa cũng lại dùng một người Quảng Nam chính cống là nhà văn Phan Khôi để dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ, mà lại dịch tốt, dù ông chưa phải là tín đồ của Ngài. Đó là một điều lạ và là một sự trùng hợp thật lý thú. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao không phải là một ai khác mà lại là Phan Khôi? Và tôi tự trả lời, trí óc tôi hữu hạn, tôi không hiểu được điều đó, tôi không biết tại sao phải là PK, nhưng Chúa thì biết rõ, vì Ngài là Đấng duy nhất tự hiểu thấu được mọi điều trong lòng người ta, bởi Ngài là Đấng toàn tri mà. Lời Kinh Thánh chép rằng: “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.” (Sách Ê-sai 55: 8-9). Ngày nay và cả sau nầy nữa, khi đề cập đến những bản Kinh Thánh Việt ngữ, thì người ta, nhất là những tín hữu Tin Lành Việt Nam, không thể nào không nhắc đến tên tuổi của PK, đóng góp của Phan Khôi, nhắc đến với lòng biết ơn và cũng nhắc đến với một sự tiếc nuối nữa, tiếc nuối là vì ông chưa thuộc về Ngài.

La một người được sinh ra và lớn lên từ vùng đất Quảng Nam yêu dấu nầy, tôi rất vui vì quê hương của mình được Chúa dùng để làm chiếc nôi cho đạo của Ngài hình thành và phát triển tại Việt Nam, cũng như rất vui vì Chúa đã dùng một người Quảng Nam quê tôi để dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ như đã có ngày nay. Với tôi, bản dịch Kinh Thánh năm 1926 là một trong những bản dịch mà tôi yêu quý, (cho dù nó còn có những chỗ cần phải hiệu đính lại cho phù hợp và dễ hiểu hơn), đơn giản vì bản dịch đó đã theo tôi từ nhỏ đến nay và trong bản dịch đó, tôi tìm thấy được chất giọng của người quê tôi trong đó và cảm thấy vui vui làm sao ấy. Nhà báo Vu Gia có viết: “Là kẻ ngoại đạo, nên nghe người biết chuyện nói vậy thì hay vậy, song khi đọc xong, tôi cũng tin bản dịch tôi đang có(cuốn Kinh Thánh do Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 1998-NV) là bản dịch của Phan Khôi, hoặc ít ra 80%- 90% là của Phan Khôi. Vì khi đọc, tôi dễ dàng nhận ra chất-giọng-đặc-sệt-Quảng-Nam trong bản dịch. Có thể nói rằng, lật bất cứ trang nào, ta cũng có thể gặp cái chất-giọng-đặc-sệt-Quảng-Nam ấy.” (27). Rồi Vu Gia dành hai trang (từ trang 382 đến 384) để trích dẫn các câu Kinh Thánh mang đậm chất giọng Quảng Nam từ sách Sáng thế ký cho đến sách Công vụ các sứ đồ. Xin được trích một vài câu trong rất nhiều câu mà Vu Gia đã dẫn trong sách của mình như sau (chỉ trích những từ mang chất giọng Quảng Nam mà thôi): hột (Sáng. 1: 11), Mà chi! (Sáng. 3: 1), Hè! (Sáng. 11: 1), Ngộ (Sáng. 18: 30), lấy chi (Lu ca 14: 34), giữ lấy y như (I Cô rinh tô 15: 2)... Ngoài ra, ông còn dành đến gần 6 trang trong sách của mình (từ trang 385 đến 390) để trích những câu Kinh Thánh trong các sách Văn thơ từ Gióp cho đến Nhã ca mà nhiều người cho là PK dịch hay nghe như ... thơ.

Ngay 12. 3. 2009, để có thêm tư liệu viết bài nầy, tôi có đến tận làng Bảo An, Xã Điện Quang, Huyện Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam, là quê hương của PK và gặp được một người bà con trong tộc của nhà văn, kêu nhà văn bằng chú trong họ, tên anh là Phan On, nay độ 60 tuổi, hiện làm cán bộ ở Xã Điện Quang, anh tiếp tôi tại nhà anh rất vui vẻ và tôi được biết thêm một số thông tin về nhà văn qua anh. Anh cũng có cho tôi mượn một số sách viết về PK để tôi tham khảo thêm. Tôi có hỏi nơi ở của nhà văn ngày xưa nay có còn di tích gì không thì được anh cho biết là chỉ còn mảnh đất mà nay người khác cũng đã làm nhà lên trên đó rồi, không còn di tích gì cả. Tôi hỏi anh về phần mộ của nhà văn nay nằm ở đâu thì được anh chỉ chỗ cho tôi biết là ở xứ Cửa Truông, Thôn Tân Phong, Xã Duy cho Châu, Huyện Duy Xuyên, Tỉnh Quảng Nam (đường vào đập Vĩnh Trinh). Xin cảm ơn anh Phan On thật nhiều. Và xin Chúa là Đấng tôi đang thờ phượng ban phước lại cho anh và gia đình anh cách bội phần.

Ngay 13. 3. 2009, tôi đến thăm phần mộ của nhà văn theo địa chỉ mà anh Phan On đã cho. Phần mộ của nhà văn nằm sát dưới chân một ngọn đồi, đường cũng hơi khó đi, tôi phải đi bộ một đoạn mới lên đến được mộ của nhà văn. Thì ra, mộ của nhà văn Phan Khôi, tác giả của bài thơ “Tình già” nổi tiếng, một trong những nhà văn, nhà thơ, nhà báo mà tôi yêu mến, người dịch Kinh Thánh của đạo Tin Lành mà tôi đang theo, ra Việt ngữ nằm ở tại đây, gần con đường mà tôi đã đi qua, đi lại rất nhiều lần để đến nhà thờ, nơi tôi đang phục vụ Chúa, vậy mà tôi không hề hay biết gì cả. Mộ của nhà văn(mộ gió)nằm ở một chỗ thật nên thơ và được làm khá kỹ lưỡng và chắc chắn. Đó là song mộ của hai vợ chồng nhà văn. Tôi xem bia mộ của nhà văn được khắc trên đá hoa cương rất đẹp, một bên ghi tiểu sử của nhà văn, một bên ghi bài thơ “Tình Già” của ông. Phần cuối tiểu sử có ghi: “Tác phẩm đã viết và dịch: Chương Dân Thi Thoại (1936), Trở Vỏ Lửa Ra (1939), Việt Ngữ Nghiên Cứu (1955), Kinh Thánh (1920-1925), các tuyển tập Lỗ Tấn (1955, 1956, 1957)... ” Tôi rất vui khi thấy tên tác phẩm Kinh Thánh có ghi trong tiểu sử của ông. Điều đó nói lên đóng góp của một người Quảng Nam vào trong sự phát triển của đạo Chúa trên đất nước Việt Nam thân yêu nầy. Nhưng tôi cũng cảm thấy buồn khi đọc dòng “Mất ngày 08-12 năm Mậu Tuất (16-01-1959) tại Hà Nội.” trên bia mộ của nhà văn. Giá mà ông tin Chúa nhỉ thì dòng đó chắc chắn sẽ là “Về Nước Chúa ngày 08-12 năm Mậu Tuất (16-01-1959) tại Hà Nội.” Là một người tin Chúa, tự nhiên tôi cảm thấy buồn và tiếc nuối về điều đó. Một người đã góp phần dịch Kinh Thánh của đạo Chúa ra tiếng mẹ đẻ của mình mà chưa tin nhận Chúa thì uổng quá, uổng vì chưa nhận được sự cứu rỗi của Chúa dành cho mình. Và tôi ước ao xin Chúa cho sẽ có nhiều những người trong dòng tộc của nhà văn, một dòng tộc nổi tiếng giỏi giang ở Quảng Nam sẽ biết đến Chúa Giê-xu và tin nhận Ngài để được hưởng ơn cứu rỗi của Ngài dành cho như tôi đã được hưởng. Nguyện Chúa làm điều đẹp ý Ngài mà cho ngày càng có nhiều người Quảng Nam quê hương của con nói riêng, nhiều đồng bào Việt Nam thân yêu của con nói chung, sớm tin nhận Chúa hầu được sống trong bình an, phước hạnh ngay trong đời nầy, và được hưởng nước Thiên đàng trong đời sau.

Xin ket thúc bài viết nầy nơi đây với lòng biết ơn Chúa vô hạn vì Ngài đã thương yêu dân tộc chúng con mà dùng Mục Sư A.B. Simson, một Mục Sư Trưởng Lo cng các tôi tớ Chúa ở cc hệ phi Tin Lnh khác như Anh quốc gio, Mennonite, Bp-tít, Gim lý... đã chịu nhiều hy sinh hiệp lại để đem Tin Lành đến đất nước Việt Nam của chúng con cách đây gần ngót một thế kỷ, nhờ đó mà ngày nay có nhiều người Việt Nam được hưởng ơn cứu rỗi của Ngài như những dân tộc khác trên trái đất nầy. Cũng xin cảm ơn những bậc tiền bối của đạo Chúa ở Việt Nam nói chung, và nhà văn Phan Khôi nói riêng, đã góp phần dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ, nhờ đó mà con dân Chúa mới được đọc lời của Ngài bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình để lớn lên mà được rỗi linh hồn.

Nguyen xin Chúa cứ tiếp tục ban phước lành cho dân tộc Việt Nam của chúng ta bội phần hơn và nguyện xin Chúa cho nhiều tín hữu Tin Lành biết thể hiện lòng yêu thương đồng bào của mình bằng cách trung tín rao truyền Tin Lành của Chúa ra cho nhiều người, để ngày càng có nhiều người Việt Nam tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa cho đời sống của mình.

Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho dân tộc của chúng ta nếu dân tộc của chúng ta biết chọn Chúa làm cơ nghiệp cho mình. Đó là điều chắc chắn và đúng đắn. Vì đó là lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh sách Thi-thiên 33: 12: “Nước nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình. Dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp mình có phước thay!”. Mà Chúa đã hứa là chắc chắn, không hề sai trật, giống như nhà văn, dịch giả Phan Khôi đã từng khẳng định: “Thuở nay tôi thấy có Giê-xu Christ nói tinh một cách quả quyết mà thôi; đố ai tìm ra được một lời nào của ngài mà đã dùng cách hồ nghi. Chẳng những dùng cách quả quyết tầm thường, mà mỗi một câu một lời của ngài, hình như ngài lại còn dùng đinh mà đóng, dùng dây mà cột cho càng thêm chắc nữa. Giảng dạy cho môn đồ, ngài hay dùng luôn câu mép này: “Quả thật, ta nói cùng người (En verité, je vous le dis); có chỗ ngài còn lặp đi lặp lại, dùng đến hai lần “Quả thật”.

Nguyen Chúa thương yêu dân tộc Việt Nam của chúng ta để ngày càng có nhiều người Việt Nam biết danh Chúa, đến với Ngài, tin nhận Ngài trước ngày Chúa Giê-xu Christ yêu dấu của chúng ta trở lại hầu cùng nhiều dân tộc khác hưởng phước sự sống miên viễn trên Thiên đàng vinh hiển.

Mong lắm thay!

- Mục sư Nguyễn - Đình - Liễu –

* Phần chú thích:

(1): Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ Cha Tôi – Phan Khôi, NXB. Đà Nẵng, 2001, p. 55.

(2): Nguyen Vỹ, Văn Thi Sĩ Tiền Chiến, NXB. Văn Học, p. 366.

(3): Le Minh Quốc, Người Quảng Nam, NXB. Đà Nẵng, 2007, p. 272.

(4): Le Minh Quốc, sđd, p. 270.

(5): Nguyen Vỹ, sđd, p. 376.

(6): Vu Gia, Phan Khoi – Tiếng Việt, Báo Chí và Thơ Mới, NXB. Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003, p. 564.

(7):Bai thơ nầy đã được khắc trên bia mộ của ông tại xứ Cửa Truông, Thôn Tân Phong, Xã Duy Châu, Huyện Duy Xuyên, Tỉnh Quảng Nam và cũng đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ thành nhạc. Chúng tôi xin trích lại bài thơ nầy để bạn đọc cùng tham khảo.

(8): Vu Gia, sđd, p. 544.

(9): Vu Gia, sđd, p. 530.

(10): Phan Thị Mỹ Khanh, sđd, p. 133.

(11): Nguyen Vỹ, sđd, p. 367.

(12): Nguyen Q. Thắng, Quảng Nam – Đất Nước và Nhân Vật, I. II, NXB. Văn Hoá Thông Tin, p. 604.

(13): Tran Mạnh Thường, Từ Điển Tác Gia Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX, NXB. Hội Nhà Văn, 2003, p. 874.

(14): Vu Gia, sđd, p. 52.

(15): Vu Gia, sđd, p. 380, 381.

(16): Nguyen Thanh Xuân, Bước đầu Tìm Hiểu Đạo Tin Lành Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam (lưu hành nội bộ), NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2002, p. 373.

(17): Muc Sư Lê Hoàng Phu, PH. D, Lịch Sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, 1911-1965, p. 111.

(18): Vu Gia, sđd, p. 390.

(19): Vu Gia, sđd, p. 384.

(20): Le Minh Quốc, sđd, p. 273.

(21): Ban Thảo Phiên Âm Sách Sáng Thế Ký, Thư Viện Thánh Kinh Thần Học Liên Hệ Phái Tin Lành Việt Nam , p. 43.

(22): Đặc san Linh Lực, Phát Hành Tháng 10/ 2006, số 142, p. 30.

(23): Nguyễn TCc, Phan Khơi vCơng trình phin dịch Kinh thnh Tin lnh Việt ngữ, Kinhthanhvn.net

(24): Vu Gia, sđd, p. 381.

(25): Phan Thị Mỹ Khanh, sđd, p. 129-131.

(26): Phan Thị Mỹ Khanh, sđd, p. 98.

(27): Vu Gia, sđd, p. 382.

TÌNH GIÀ.

(Thơ Phan Khôi)

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cai đầu xanh, kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
ma lấy nhau hẳn đà không đặng;
“Để đến nỗi tình trước phụ sau,
chi cho bang sớm liệu mà buông nhau!”
- “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
Buong nhau làm sao cho nỡ?
“Thương được chừng nào hay chừng nấy,
chang qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
“Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
mà tính việc thủy chung?”

... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...

Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
Đố có nhìn ra được!
On chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mat còn có đuôi.

( 1932)