Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 3 | Chương 5 >> | Hướng Dẫn
Sáng-Thế Ký
Khởi đầu của thế giới, loài người và dân tộc Hê-bơ-rơ. Chép
về công cuộc sáng tạo, nạn nước lụt, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Giô-sép.
Tác Giả Của Sách Sáng-Thế Ký
Truyền thuyết lâu đời của dân
Hê-bơ-rơ và của tín đồ Ðấng Christ là: Do Thánh Linh của Ðức Chúa Trời dắt dẫn,
Môi-se đã dựa vào các tài liệu cổ sẵn có đương thời mình mà chép ra sách Sáng
thế ký. Sách nầy chấm dứt chừng 300 năm trước thời Môi-se. Ông chỉ có thể được
sự tri thức đó hoặc bởi Ðức Chúa Trời trực tiếp khải thị, hoặc nhờ những tài
liệu lịch sử của tổ tiên truyền lại cho.
Mở đầu bằng "Bài ca Sáng
Tạo," rồi có 10 "Sách Dòng dõi(1)
" họp thành "cái cốt" của sách Sáng thế ký. Dường như các
"sách dòng dõi" nầy hoặc do Môi-se phối hợp cụ thể, rồi thêm vào các
đoạn và các lời giải thích tùy theo ông được Ðức Chúa Trời dắt dẫn, hoặc chính
ông đã dựa vào các tài liệu lịch sử khác mà mình sẵn có để biên trứ dưới sự dẫn
dắt của Ðức Chúa Trời. Mười một tài liệu ấy như sau đây:
"Bài ca Sáng Tạo" (1:1-2:3).
"Gốc tích(2)
trời và đất" (2:4-4:26).
"Sách chép dòng dõi của A-đam" (5:1-6:8).
"Dòng dõi của Nô-ê" (6:9-9:28).
"Dòng dõi của các con trai Nô-ê"
(10:1-11:9).
"Dòng dõi của Sem" (11:10-26).
"Dòng dõi của Tha-rê" (11:27-25:11).
"Dòng dõi của Ích-ma-ên" (25:12-18).
"Dòng dõi của Y-sác" (25:19-35:29).
"Dòng dõi của Ê-sau" (36:1-43).
"Dòng dõi của Gia-cốp" (37:2-50:26).
Mười một tài liệu thượng cổ nầy vốn là gia phổ của
dòng dõi được Ðức Chúa Trời lựa chọn và của những gia tộc liên hệ. Chúng hợp
thành sách Sáng thế ký và gồm 2000 năm đầu tiên của lịch sử loài người, từ khi
dựng nên loài người đến khi tuyển dân của Ðức Chúa Trời kiều ngụ tại Ai-cập.
"Bài ca Sáng Tạo" (1:1-2:3)
Ðây là một bài đầy thi vị, có sự uyển chuyển đều
mực và oai nghiêm, mô tả các giai đoạn liên tiếp của sự sáng tạo. Sự sáng tạo
nầy được thực hiện trong bảy ngày, là con số hay được nhắc đến trong Kinh
Thánh. Trong tất cả văn chương, hoặc thuộc về khoa học, hoặc thuộc về ngành nào
khác, không có truyện tích nào tuyệt diệu hơn về căn nguyên muôn vật.
Ai đã viết "Bài ca Sáng Tạo?" Môi-se dùng
nó, nhưng chắc nó đã được viết ra từ lâu đời về trước, có lẽ bởi Áp-ra-ham,
hoặc Nô-ê, hoặc Hê-nóc, hoặc A-đam. Người ta thường dùng chữ viết từ bao nhiêu
đời trước thời Môi-se. Một số "điều răn, qui tắc và luật pháp"
(Nê-hê-mi 9:14) đã có đương thời Áp-ra-ham, tức là 600 năm trước thời Môi-se
(xem Sáng thế ký 26:5).
Tác giả làm sao biết được việc xảy ra trước khi
loài người xuất hiện? Chắc hẳn Ðức Chúa Trời "đã khải thị quá khứ xa vời
cho ông cùng một cách như về sau, Ngài bày tỏ tương lai xa vời cho các đấng
tiên tri vậy."
Biết đâu Ðức Chúa Trời đã chẳng dạy "bài
ca" nầy, hoặc đại ý của nó cho chính A-đam? Có lẽ "bài ca" nầy
đã được truyền miệng trong lúc gia đình sum họp, hoặc được hát lên như một nghi
lễ trong cuộc thờ phượng thời cổ (thánh ca là phần lớn của các hình thức văn
chương thời tối cổ), từ thế hệ nầy đến thế hệ kia, cho đến khi chữ viết được
đặt ra. Chính Ðức Chúa Trời canh giữ sự lưu truyền "bài ca" ấy cho
đến khi nhờ trí óc phi thường của Môi-se, nó chiếm được địa vị mở đầu Sách của
Ðức Chúa Trời ban cho các thời đại.
Nếu Kinh Thánh là Lời Ðức Chúa Trời như chúng ta đã
tin, và nếu Ðức Chúa Trời biết từ lúc ban đầu rằng Ngài sẽ dùng Kinh Thánh làm
khí cụ chánh yếu trong sự cứu chuộc loài người, thì tại sao lại khó tin rằng
cùng một lúc dựng nên họ, Ngài đã ban cho họ mầm giống và nguyên tử của Lời ấy?
Ðoạn 1:1 -- Sáng tạo vũ trụ
"Ban đầu" Ðức Chúa Trời dựng nên vũ trụ.
Ðó là sự sáng tạo tuyệt đối.
Những điều chép nối tiếp trong "bảy ngày"
mô tả nhiều cách nắn hình vật chất đã dựng nên có liên quan đến trái đất, để dự
bị mặt đất cho sự dựng nên loài người và làm nơi ở của họ. Theo niên biểu của
Kinh Thánh, thì loài người được dựng nên chừng 4000 năm T.C.. Nhưng vũ trụ có
thể được dựng nên từ vô số đời về trước, từ quá khứ xa xăm, sâu thẳm vô cùng,
từ trước khi có thời gian.
Ðức Chúa Jêsus có mặt ở đó, và đã góp tay dự phần
(Giăng 1:1-3; 17:5, 24).
Ai tạo nên Ðức Chúa Trời?
Con trẻ nào cũng hỏi câu nầy? Và không ai trả lời
được. Có những điều vượt quá trí chúng ta. Chúng ta không thể khái niệm lúc bắt
đầu của thời gian, hoặc lúc tận cùng của thời gian, hoặc biên giới của không
gian. Vũ trụ đã thực hữu luôn, không hề có lúc ban đầu; hoặc vũ trụ được tạo
nên từ cõi không không. Hai điều ấy phải có một, nhưng ta không thể khái niệm
điều nầy hoặc điều kia. Ta biết điều nầy: Những sự vật cao tột mà ta nghĩ tới
được là: Thân vị, tinh thần, trí khôn. Nó từ đâu mà đến? Vật vô tri có thể dựng
nên trí khôn chăng? Bởi ÐỨC TIN, chúng ta nhìn nhận một Quyền phép cao trọng
hơn mình, tức là ÐỨC CHÚA TRờI, như là tuyệt điểm của tư tưởng mình, và hy vọng
rằng một ngày kia, trong cõi đời sau, ta sẽ hiểu được những lẽ mầu nhiệm của sự
thực hữu (hoặc: sự sống).
Vũ trụ mà Ðức Chúa Trời đã dựng nên
Các nhà thiên văn học phỏng định rằng Ngân hà mà
trái đất và thái dương hệ thống thuộc về đó, có hơn 30 tỷ mặt trời, nhiều cái
lớn hơn mặt trời của chúng ta bội phần; vả mặt trời của chúng ta lớn hơn trái
đất một triệu rưỡi lần. Ngân hà có hình như một chiếc đồng hồ mỏng, đường kính
từ đầu nầy tới đầu kia là 200 ngàn năm ánh sáng; một năm ánh sáng là khoảng
đường mà ánh sáng vượt qua trong một năm với tốc độ 186.000 dặm (chừng 300.000
cây số) một giây đồng hồ. Vả, có rất ít là 100.000 nhóm tinh tú giống như Ngân
hà, và một vài nhóm cách nhau hàng triệu năm ánh sáng. Và mọi sự nầy có thể chỉ
là một chấm nhỏ trong không gian vô biên, vô tận.
Ðoạn 1:2 đến 2:3 -- "Bảy
ngày."
Chúng ta chẳng biết đây là những ngày có 24 giờ,
hay là những thời kỳ dài kế tiếp nhau, hay là các khoảng xen vào giữa những
thời kỳ ấy. Chữ "ngày" có nhiều nghĩa khác nhau. Chữ "ngày"
ở Sáng thế ký 1:5 dùng để chỉ về sự sáng. Ở 1:8, 13 dường như có nghĩa là một
ngày 24 giờ. Ở 1:14, 16 dường như có nghĩa là ban ngày 12 giờ. Ở 2:4 (2) dường như gồm cả thời kỳ sáng tạo.
Trong những khúc sách như Giô-ên 2:18, Công vụ các sứ đồ 2:20, Giăng 16:23, hai
chữ "ngày đó" dường như chỉ về cả kỷ nguyên đạo Ðấng Christ. Trong
những khúc sách như II Ti-mô-thê 1:12, dường như chỉ về kỷ nguyên sau lúc Chúa
tái lâm. Còn theo Thi Thiên 90:4 và II Phi-e-rơ 3:8, thì "ở trước mặt Chúa
một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày." Vậy, chúng ta chớ quá độc
đoán về kỳ gian của sáu ngày sáng tạo.
Nhưng bất cứ kỳ gian của nó là chừng nào, chúng ta
cũng hãy nhớ rằng công việc của mỗi ngày đã thành tựu như là kết quả do mạng
lịnh Ðức Chúa Trời. Ðoạn nầy không phải là một bài luận về khoa học, nhưng
giống như một bài thơ hoặc một bài ca nhiều hơn. Tuy nhiên, nó ăn hiệp rất lạ
lùng với môn sanh vật học và môn động vật học ngày nay.
Ngày thứ nhứt (1:2-5)
Sự sáng.--
Sự sáng chắc đã gồm trong "trời đất" mà Ðức Chúa Trời dựng nên lúc
"ban đầu." Nhưng mặt địa cầu chắc còn tối tăm, vì vỏ địa cầu đang
nguội lần, là một khối hiu quạnh sôi sùng sục và có nước sôi bao phủ, chắc đã
bốc lên nhiều lớp sương mù và hơi dày, che khuất hẳn ánh sáng mặt trời. Sự sáng
và sự liên tiếp của ngày và đêm đã được thiết lập trên mặt địa cầu khi sự nguội
lần đã giảm bớt mật độ của sương mù, đủ cho ánh sáng thấu qua. Tuy nhiên, mãi
đến ngày thứ tư, mặt trời mới xuất hiện, mắt xem thấy được.
Ngày thứ hai (1:6-8)
Khoảng không.--
gọi là "trời" đây chỉ về bầu không khí, hoặc lớp khí trời, ở giữa
trái đất có nước bao phủ và các từng mây bên trên. Có khoảng không nầy là vì
nước của trái đất càng nguội hơn; tuy nhiên, mặt trái đất còn nóng đủ để làm ra
mây che khuất mặt trời.
Ngày thứ ba (1:9-13)
Ðất đai và cây cối.--
Cho tới bây giờ, dường như mặt trái đất đã bị nước phủ kín hết; ấy vì lớp vỏ
mỏng mới kết thành luôn luôn nứt vỡ, chắc đã giữ cho mặt trái đất trơn tru, như
một trái cầu bằng nước vậy. Nhưng khi lớp vỏ nguội hơn, dày hơn và bất động
hoặc ít hoặc nhiều, thì nó bắt đầu cong lên, các hải đảo và địa lục bắt đầu
hiện ra. Chưa có mưa, nhưng các lớp sương dày nhuần tưới đất đai mới tạo thành
khi ấy tự nó vẫn còn nóng. Khắp nơi có khí hậu nhiệt đới, cây cối chắc đã mọc
lên mau chóng và rất nhiều; rồi do biết bao nhiêu lần dìm xuống và cất lên liên
tiếp, cây cối ấy biến thành những lớp than mà ta có ngày nay.
Ngày thứ tư (1:14-19)
Mặt trời, mặt trăng, ngôi
sao.-- Nhưng vì sáng nầy chắc đã được dựng nên lúc
"ban đầu." "Ngày thứ nhứt," ánh sáng của chúng chắc đã thấu
qua những lớp sương của trái đất (1:3), nhưng chính chúng thì chưa lộ ra. Bây
giờ, vì các đám mây bớt mật độ, là kết quả do trái đất càng nguội thêm, nên
trên mặt trái đất thấy chúng được. Khi mặt đất không còn nhận chịu sức nóng từ
bên trong. Nhưng chỉ còn nhờ mặt trời mà có sức nóng, thì liền có thời tiết.
Bấy giờ các cuộc phát triển địa chất chắc đã chậm lại và gần như ngừng hẳn.
Ngày thứ năm (1:20-25)
Biển, cá và chim.--
Hãy chú ý sự tấn triển: Ngày thứ nhứt và ngày thứ hai có những vật vô tri giác;
ngày thứ ba có sự sống thảo mộc; ngày thứ năm có sự sống động vật.
Ngày thứ sáu (1:24-31)
Ðất đai, súc vật và loài
người.-- Rốt lại, trái đất đã sẵn sàng làm nơi ở của người;
Ðức Chúa Trời bèn làm nên người theo hình ảnh Ngài, và ban cho người quyền cai
trị trái đất cùng mọi loài trên đất. Chắc Ðức Chúa Trời đã rất hài lòng về công
việc của Ngài, vì Ngài thấy mọi công trình đó "thật rất tốt lành"
(1:4, 10, 12, 18, 21, 25, 31). Nhưng chẳng bao lâu bức tranh đã đổi ra ảm đạm.
Ðức Chúa Trời chắc đã biết trước sẽ xảy ra như vậy, và chắc đã coi tất cả công
trình sáng tạo loài người chỉ như một bước đi tới thế giới vinh hiển sẽ còn từ
bức tranh đó lộ ra, theo như có mô tả trong những đoạn chót của sách Khải
Huyền.
Ngày thứ bảy (2:1-3)
Ðức Chúa Trời yên nghỉ.--
Không phải là yên nghỉ tuyệt đối (Giăng 5:7), nhưng là yên nghỉ sau công trình
sáng tạo đặc biệt nầy. Ðó là nền tảng của ngày Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô ký 20:11).
Xin chú ý rằng ngày thứ bảy không có "buổi chiều." Nó có liên quan
thần bí với Thiên đàng (Hê-bơ-rơ 4:4, 9). Con số "bảy" có thể đứng
trong cơ cấu vũ trụ, vượt quá sự hiểu biết của loài người bội phần.
Bí Chú Khảo Cổ: Những truyện tích của xứ Ba-by-lôn
về công cuộc sáng tạo
Những năm gần đây, trong đống di tích của các thành
Ba-by-lôn, Ni-ni-ve, Nipput và Ashur, người ta đã tìm thấy nhiều bản ca
về công cuộc sáng tạo, dưới nhiều hình thức, ghi trên các tấm bảng lưu hành từ
trước thời Áp-ra-ham, giống hệt như "Bài ca Sáng Tạo" trong sách Sáng
thế ký.
Có "bảy tấm bảng" (hoặc thời kỳ) về công
cuộc sáng tạo: "Ban đầu" có một "vực sâu nguyên thủy," có
"những nước hỗn loạn" gọi là "vực." Các thần đã "tạo
thành muôn vật," đã làm ra "khoảng không ở trên và khoảng không ở
dưới," đã "lập vững các từng trời và trái đất." Ngày thứ tư, các
thần đã "đặt những ngôi sao đúng chỗ," đã "làm cho cỏ xanh mọc
lên," đã "dựng nên loài thú ngoài đồng, gia súc và mọi vật
sống." Ðến ngày thứ sáu, các thần "làm nên người bằng bụi đất; người
trở nên loài sống; người và vợ ở chung, kết bạn với nhau; một cái vườn là nơi
họ ở, và họ chẳng biết đến y phục." Ngày thứ "bảy" được chỉ định
làm "ngày thánh," và "có lịnh phải ngừng mọi công việc."
Những truyện tích sáng tạo của người Ba-by-lôn và
người A-si-ri nầy đều thiên về thuyết đa thần quá đáng. Nhưng vì có rất nhiều
điểm giống như truyện tích trong sách Sáng thế ký, nên dường như cả hai truyện
có cùng một nguồn. Ðiều nầy há chẳng chứng tỏ rằng một vài ý tưởng của sách
Sáng thế ký đã in sâu trong trí nhớ của những người thượng cổ ở trên mặt đất,
sao? rằng các nhơn chủng, một khi tách khỏi dòng giống lựa chọn của Ðức Chúa
Trời và sa xuống vòng thờ lạy hình tượng, vẫn thọ hưởng và lưu truyền di phẩm
của một chơn lý mà họ đã đem đồng hóa với nền văn hóa quốc gia của mình, sao?
Những truyền thoại đại bại nầy há chẳng làm chứng cho cái thực sự rằng đã có
một nguyên bổn từ Ðức Chúa Trời mà ra, sao?
Bí Chú Khảo Cổ: Nhứt thần luận nguyên thủy
Kinh thánh trình bày rằng loài người phát nguyên
với lòng tin tưởng Nơi Một Ðức Chúa Trời Duy Nhất, rằng sự thờ lạy hình
tượng theo thuyết đa thần về sau mới bành trướng. Ðó là trái hẳn với lý thuyết
kim thời rằng ý niệm về một Ðức Chúa Trời duy nhứt đã lần lần phát triển từ bái
vật giáo. Mới đây, quan điểm của Kinh Thánh đã được khảo cổ học xác nhận. Tấn
sĩ Stephen Langdon, thuộc Ðại học
đường Oxford, đã nhận thấy những bi
văn tối cổ của xứ Ba-by-lôn nêu lên rằng tôn giáo đầu tiên của loài người là
tin nơi một Ðức Chúa Trời duy nhứt, rồi từ dó mới mau lẹ sa xuống chủ nghĩa đa
thần và sự thờ lạy hình tượng(1).
Huân tước Flinders
Petrie nói rằng tôn giáo nguyên thủy
của Ai-cập là tôn giáo độc thần.
Năm 1898, Sayce
báo cáo rằng trên ba tấm bảng của Anh quốc Bảo tàng viện, về thời vua Hammurabi, ông đã khám phá được mấy chữ:
"Jahwe (Giê-hô-va) là Ðức Chúa
Trời."
Mới đây, nhiều nhà nhơn loại học trứ danh đã báo
cáo rằng giữa vòng các chủng tộc thượng cổ, đã có sự tín ngưỡng phổ thông nơi
Ðức Chúa Trời Cao cả độc nhứt vô nhị(2).
"Gốc tích trời và đất"
(2:4-4:26)
Mấy đoạn nầy thường khi gọi là "truyện tích
thứ hai" về sự sáng tạo. Thoạt đầu có lời nhắc đến tình trạng hiu quạnh
của trái đất (2:5, 6), rất ứng hợp với phần đầu "ngày thứ ba" của
"truyện tích thứ nhứt" (1:9, 10); rồi tới mấy chi tiết mà truyện tích
thứ nhứt bỏ sót; đoạn, bắt đầu kể sự sa ngã của loài người. Truyện tích nầy có
tánh chất bổ túc, chớ không mâu thuẫn. Những chi tiết phụ thêm thì chẳng phải
là mâu thuẫn đâu.
Ai là tác giả nguyên thủy của tài liệu nầy? Nó
chuyển truyện tích xuống tới thế hệ thứ 6 của dòng dõi Ca-in (4:17-22), và kết
thúc trong lúc A-đam còn sống (ông sống đến tận thế hệ thứ 8 của dòng dõi Sết
-- 5:4-25). Như vậy, mọi biến cố trong tài liệu nầy đã xảy ra trong đời A-đam.
Nếu chữ viết chưa đặt ra khi A-đam còn sống, thì ông há chẳng có thể thuật đi
thuật lại mọi sự nầy trong chốn gia đình, đến nỗi ít ra đại ý của nó in hình
trong trí óc người ta cho tới lúc đặt chữ viết, sao? Môi-se há chẳng có thể ghi
chép đại khái truyện tích loài người sa ngã theo chính lời A-đam đã kể, sao?
Ðoạn 2:4-17 -- Vườn Ê-đen
Trong đoạn 1, Ðấng Tạo Hóa được xưng là Ðức Chúa
Trời (Elohim), tức là thông danh (nom générique)
của Ðấng Cao Cả. Ðây lại xưng Ngài là "Giê-hô-va Ðức Chúa Trời" (Jehovah Elohim), tức là biệt danh của Ngài. Ðó là bước thứ nhứt trong
phương thức dài dặc của Ðức Chúa Trời tự khải thị.
"Chưa có mưa, song có hơi nước." Ðiều nầy
chắc có nghĩa rằng trong một thời gian, trước khi có mưa, trái đất đã được
nhuần tưới bằng những lớp sương mù dày dặc, vì lúc ấy mặt địa cầu còn nóng lắm,
do đó hơi nước rất đặc, đến nỗi những giọt mưa mát mẻ ở vành ngoài của các đám
mây cũng lại biến thành hơi nước trước khi xuống tới mặt đất.
"Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lập một cảnh
vườn" (câu 8). Về vị trí, xin xem trang 63.
"Cây sự sống" (câu
9; 3:29) có lẽ thật là món ăn để được bất tử, tỏ ra sự bất tử của chúng ta tùy
thuộc một cái gì ở bên ngoài ta. Cây nầy lại sẽ dành cho những ai đã giặt áo
mình trong Huyết Chiên Con (Khải Huyền 2:7; 22:2, 14).
"Cây biết điều thiện và
điều ác" (9, 17) thì "ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí
khôn" (3:6). Dầu tánh chất của cây nầy thật là gì đi nữa, -- là một cây
thật, hay là hình bóng hoặc tượng trưng, -- nhưng ít ra một phần yếu tố của tội
lỗi A-đam và Ê-va cũng là điều nầy: Chuyển quyền kiểm soát đời mình từ Ðức Chúa
Trời qua chính mình. Ðức Chúa Trời đã phán bảo họ đại khái rằng họ có quyền làm
bất cứ điều chi mình muốn. Trừ Ra một điều. Ðó là thử xem họ có vâng lời
Ngài hay không? Ðang khi họ tự chế, thì Ðức Chúa Trời là Chủ của họ. Một khi họ
bất kể mạng lịnh của Ðức Chúa Trời mà làm điều cấm duy nhứt đó, thì họ tự tôn
mình làm chủ mình. Ðó há chẳng phải yếu tố của tội lỗi loài người sao? Tức là
tự nhận điều khiển đời mình cho hợp theo ý mình. Từ ban đầu, Ðức Chúa Trời định
cho loài người sống đời đời, và điều kiện duy nhứt là phải vâng lời Ngài. Loài
người đã thất bại. Bấy giờ bắt đầu phương thức cứu chuộc dài dặc nhưng chậm
chạp, bởi một Cứu Chúa, nhờ Ngài mà loài người có thể được lại địa vị đã mất. Sự
sống tuyệt đối chỉ có trong sự vâng lời tuyệt đối.
Ðoạn 2:18-25 -- Sự dựng nên người nữ
Ðoạn 1:27 đã tuyên bố rằng
người được dựng nên có nam, có nữ. Tới đây, cách dựng nên người nữ được kể lại
đầy đủ hơn. Tại đây, lúc khởi đầu của loài người và của Sách Thánh, nguyên thủy
thiên thượng và tánh chất thánh khiết của hôn nhơn đã được xác định: Một người
nam, một người nữ, một thịt (câu 24).
Kinh Thánh hình dung hôn nhơn
như là đạo nghĩa trần gian đối chiếu với mối liên quan giữa Ðấng Christ và Hội
Thánh (Ê-phê-sô 5:25-32; Khải Huyền 19:7; 21:2-9). Hội Thánh được xưng là
"Tân Phụ" của Ðấng Christ. Tân phụ của A-đam được làm nên bởi sườn
ông đang khi ông ngủ (câu 21, 22). Ðó có thể là bức tranh nguyên thủy về Hội
Thánh: Tân phụ của Ðấng Christ, được tạo nên bởi "huyết và nước" từ
cạnh sườn Ðấng Christ chảy ra, đang khi Ngài "ngủ" trên Thập tự giá
(Giăng 19:34; I Giăng 5:6, 8).
"Trần truồng, mà chẳng hổ
thẹn" (câu 25). Có lẽ họ được bao phủ bằng sự sáng cao khiết của Ðức Chúa
Trời, cũng như Ðức Chúa Jêsus khi Ngài hóa hình vậy (Mác 9:3). Sự sáng nầy đã
biến mất khi tội lỗi xen vào; song một ngày kia, nó lại sẽ bao phủ những người
được cứu chuộc (Khải Huyền 3:4; 21:23). Theo chỗ ta biết, trong mọi loài Ðức
Chúa Trời dựng nên, chỉ có loài người mặc quần áo, đó là dấu hiệu tỏ ra bổn
tánh tội lỗi của chúng ta và là chứng cớ thầm lặng về chơn lý nguyên thủy.
Vị trí của vườn Ê-đen
Vườn ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát
và sông Ti-gơ-rơ, tại nơi hai sông nầy gặp sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn
(2:10-14). Chưa chỉ đúng được vị trí sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn. Sông
Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ phát nguyên từ miền núi Causase, ở Tây nam Á Châu,
chảy về phía Ðông nam, rồi đổ vào vịnh Ba-tư, là một vũng của Ấn độ dương.
Vậy, ta có thể nói rằng loài
người đã được dựng nên và đặt trên đất, vào khoảng gần giữa mặt địa cầu; vì khu
vực sông Ơ-phơ-rát và núi Caucase ở
gần trung tâm của đông bán cầu, vốn rộng lớn hơn tây bán cầu.
Nói chung, các nhà nhơn chủng
học đều nhận xét rằng khu vực nầy là nơi phát tích mọi chủng tộc của loài
người. Từ khu vực nầy sản xuất con bò, dê, chiên, ngựa, heo, chó, và phần nhiều
gia súc. Tại đây cũng phát sanh trái táo, đào, lê, mận, anh đào, mộc qua, dâu,
phúc bồn tử, nho, ô-li-ve, vả, chà là, hột giẻ, lúa mì, lúa mạch, lúa kiều
mạch, đậu, cây gai, rau dền, củ cải, hành, và hầu hết trái cây cùng rau cỏ của
chúng ta. Ðó là nơi loài người phát xuất.
Xứ Ba-by-lôn
Một số người tưởng rằng vùng cao nguyên xứ ạc-mê-ni,
nơi nguồn sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ (có lẽ thời ấy chưa cao hơn mặt biển
nhiều như ngày nay), có thể là vị trí đặc biệt của vườn Ê-đen. Dầu vậy, theo
truyền thoại và theo phần đông người đồng ý, thì vị trí của vườn Ê-đen chính là
xứ Ba-by-lôn, gần cửa sông Ơ-phơ-rát. "Edin"
là tên thời thượng cổ của đồng bằng Ba-by-lôn.
Hiện nay, sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ gặp nhau
chừng 100 dặm phía trên vịnh Ba-tư. Ðương thời Áp-ra-ham, vịnh nầy ăn sâu vào
địa lục đến tận U-rơ, và hai sông nầy đổ vào vịnh bởi nhiều nhánh riêng biệt,
theo như những dòng chấm trên bản đồ ở trang 64 chỉ tỏ. Cả đồng bằng Ba-by-lôn
do phù sa của hai con sông nầy kết thành. Lòng hai con sông nầy thường hay đổi
chiều.
Có lẽ đương thời A-đam, hai sông nầy hợp nhau một
quãng, rồi lại chia ra trước khi đổ vào vịnh Ba-tư.
Vườn Ê-đen ở trên dòng sông hợp nhứt, khoảng giữa
chỗ hợp lại và chỗ chia ra, và như vậy, chia thành bốn "ngả"(2) (2:10). Hai con sông cứ chảy tới bờ
phía Ðông và bờ phía Tây của vịnh Ba-tư, và được gọi là Bi-sôn và Ghi-hôn. Trên
những bi văn thượng cổ, vịnh Ba-tư được gọi là một "con sông." Thủy
triều của nó lên cao chừng 3 thước, làm cho những dòng sông nầy nhô lên, trông
giống như "đầu" người vậy.
Bản đồ số 20 -- Nơi loài người phát tích
Bí Chú Khảo Cổ: Eridu, vườn Ê-đen theo truyền
thoại
Chỗ đặc biệt mà truyền thoại xác định là vị trí
vườn Ê-đen chính là một nhóm gò nỗng cách U-rơ 12 dặm về phía Nam, gọi tên là
Eridu (Abu Sharem). Giác trụ của Weld có ghi rằng hai vua đầu tiên trong
lịch sử đã trị vì ở Eridu.
Các bi văn cổ xứ Ba-by-lôn ghi rằng: "Gần Eridu có một khu vườn, trong đó có một
cây thiêng liêng, mầu nhiệm, gọi là cây sự sống, do các thần trồng. Rễ nó ăn
sâu, còn nhánh lên cao tận trời, có các thần linh canh giữ, và không ai tới gần
bên cây được."
Di tích của Eridu
đã do Hall và Thompson đào bới năm 1918-1919. Hai ông nầy thuộc Anh quốc Bảo tàng
viện, đã thấy bằng cớ tỏ rõ Eridu vốn là một đô thị thạnh vượng có văn hóa, và
được tôn trọng như là nơi phát tích của loài người.
Khu vực Eridu
Cuộc đào bới đã tỏ ra rằng trong những thời kỳ lịch
sử đầu tiên mà ta được biết, khu vực chung quanh Eridu có cư dân đông đúc, và trải qua bao nhiêu thế kỷ, là trung
tâm thông trị thế giới. Tại khu vực nầy, người ta đã tìm được nhiều bi văn cổ
nhứt và quí giá nhứt.
U-rơ, nơi sanh trưởng của Áp-ra-ham, chỉ cách Eridu 12 dặm.
Fara, nơi sanh trưởng của Nô-ê theo truyền thoại, cách Eridu 70 dặm.
'Obeid (Al 'Ubaid), nơi tìm được tài liệu lịch sử lâu đời nhứt, chỉ
cách Eridu 15 dặm.
Lagash, nơi tìm được những thơ viện thượng cổ rộng lớn,
chỉ cách Eridu 60 dặm.
Nippur, một trung tâm thơ viện khác, cách Eridu 100 dặm.
Ê-rết (Sáng thế ký 10:10), một trong những đô thị
của Nim-rốt, cách Eridu 50 dặm.
Larsa, nơi tìm thấy giác trụ của Weld, cách Eridu chừng 40
dặm.
Ba-by-lôn chỉ cách Eridu 150 dặm.
Ðoạn 3 -- Loài người sa ngã
Sự sa ngã của loài người xảy
ra do sự xảo trá và mưu chước của con rắn. Theo Kinh Thánh chép, thì con rắn tự
nó nói được. Nhưng các đoạn Kinh Thánh khác chỉ tỏ rằng chính là Sa-tan đã nói
bởi con rắn (II Cô-rinh-tô 11:3, 14; Khải Huyền 12:9; 20:2). Lúc đó A-đam và
Ê-va ở một mình, chẳng có bầu bạn nào trừ ra các súc vật, và ông bà có vẻ thân
mật với chúng lắm (2:19, 20). Có người tưởng rằng nguyên thủy con rắn đứng
thẳng được, rất đẹp đẽ, và tự nhiên thích hợp nhứt để làm dụng cụ của Sa-tan. Nó
dụ dỗ A-đam và Ê-va không vâng lời Ðấng Tạo Hóa của họ. Việc khủng khiếp đã xảy
ra. Tấm vải liệm của tội lỗi, tối tăm, làm lụng khó nhọc, đau đớn và sự chết
phủ trên một thế giới mà Ðức Chúa Trời đã làm nên rất đẹp đẽ và "rất tốt
lành" (1:31). Không vâng lời Chúa, nên sanh ra tội lỗi và sự chết.
Tại sao Ðức Chúa Trời làm nên người có thể phạm tội?
Ðức Chúa Trời há có thể dựng
nên người một cách khác, trừ ra làm họ như một cái máy, hoặc như con vật chỉ do
trực giác sai khiến? Há có thể có một loài thọ tạo có ý niệm đạo đức mà lại
không có quyền lựa chọn sao? Tự Do là điều Ðức Chúa Trời phú bẩm cho
loài người: Tự do tư tưởng, tự do lựa chọn, tự do tín ngưỡng, -- mặc dầu loài
người dùng sự tự do ấy để chối bỏ và không vâng lời Ðức Chúa Trời mình.
Trong một tai nạn xe lửa kia,
người thợ máy đáng lẽ có thể nhảy ra ngoài để cứu mạng mình, nhưng đã ở nguyên
tại chỗ, thi hành phận sự, do đó, ông cứu được hành khách, nhưng lại bỏ mạng. Họ
bèn dựng đài kỷ niệm, chẳng phải cho đoàn xe lửa, vì nó chỉ làm việc máy móc
buộc nó phải làm, nhưng cho người thợ máy, vì ông đã tự ý lựa chọn mà liều mình
để cứu hành khách. Sự vâng lời Ðức Chúa Trời sẽ có giá trị gì nếu trong bổn
tánh ta không có một ý hướng làm trái lại? Nhưng nếu ta vâng lời Ðức Chúa Trời
bởi tự ý lựa chọn và bởi chống lại sự xui giục mạnh mẽ của bổn tánh mình, thì
sự vâng lời đó mới là do tâm tình cương nghị.
Nhưng Ðức Chúa Trời há chẳng biết trước rằng loài người
sẽ phạm tội sao?
Có chớ, và Ngài cũng biết
trước những hậu quả khủng khiếp, tối hậu nữa. Chúng ta chịu đau khổ quá, và
nhiều lần tự hỏi tại sao Ðức Chúa Trời lại tạo nên một thế giới như vậy? Nhưng
ngày kia, khi mọi sự đã tới chỗ thực hiện chung kết, thì sự đau đớn của ta sẽ
hết, ta chẳng còn ngạc nhiên nữa, và cùng với những người được cứu chuộc của
mọi thời đại, chúng ta sẽ hòa tiếng hát: "A-lê-lu-gia!" vô tận để
ngợi khen Ðức Chúa Trời vì Ngài đã dựng nên chúng ta như vậy đó, và vì Ngài cứ
dắt dẫn ta đến sự sống, vui mừng, vinh hiển trong cõi đời đời vô tận (Khải
Huyền 19:1-8).
Ảnh hưởng của tội lỗi trên cõi thiên nhiên
Ðây, trong những trang đầu
Kinh Thánh, chúng ta thấy lời giải thích khởi thủy về cõi thiên nhiên đúng như
tình trạng của nó ngày nay: Người ta thường ghét loài rắn (3:14, 15); đờn bà
đau đớn khi sanh con (3:15); trái đất tự nhiên sanh nhiều loài cỏ vô ích, còn
cây cỏ dùng làm lương thực thì phải trồng trọt rất khó nhọc (3:17-19); cũng có
lời giải thích khởi thủy về căn nguyên ngày yên nghỉ (2:2, 3), căn nguyên của
hôn nhơn (2:24), và có dự ngôn về Ðấng Christ trong "dòng dõi người nữ"
(3:15) và trong tế lễ chuộc tội (4:4).
"Dòng dõi người nữ" (câu 15)
Ðây, ngay sau khi loài người
sa ngã, Ðức Chúa Trời ban lời tiên tri và quyết chắc rằng nhờ "dòng dõi
người nữ," sự dựng nên loài người sẽ còn được chứng tỏ là thành công mỹ
mãn. Ðó là lời đầu tiên trong Kinh Thánh ngụ ý nói tới Ðấng Cứu Chuộc hầu đến. Chữ
"người(1)" ở câu 15 tỏ ra
rằng chỉ nói đến một người thôi. Chỉ có một người dòng dõi của Ê-va do người nữ
sanh ra, chớ không do người nam. Ðây, ngay đầu truyện tích Kinh Thánh, đã có dự
ngôn nguyên thủy về Ðấng Christ; rồi lần qua các trang, những lời ngụ ý, dự
ngôn, hình ảnh mập mờ, hình bóng và những lời tuyên bố tỏ tường càng lâu càng
rõ, càng nhiều, đến nỗi khi chấm hết Cựu Ước, thì đã có một bức tranh khá đầy
đủ của Ðấng Christ.
"Mẹ của cả loài người" (câu 20)
Ơn cứu chuộc bởi Ðấng Christ
căn cứ trên sự duy nhứt của loài người. Tội lỗi của một người đã gây nên sự
chết, và sự chết của một Người đã đem lại ơn cứu chuộc khỏi tội lỗi (Rô-ma
5:12-19).
Bí Chú Khảo Cổ: Truyền thoại của xứ Ba-by-lôn về loài người sa ngã
Những bi văn thượng cổ của xứ
Ba-by-lôn nói nhiều đến "cây sự sống" và loài người đã bị đuổi xa cây
ấy do ảnh hưởng của một tà thần mượn hình con rắn; và những chê-ru-bin đứng
canh giữ đã ngăn cản không cho loài người trở về bên cây ấy.
Trong số những tấm bảng nầy có
truyện tích "Adapa," giống
hệt như truyện tích A-đam trong Kinh Thánh, đến nỗi "Adapa" được gọi là A-đam của xứ Ba-by-lôn: "Adapa, dòng dõi của loài người, vốn là
kẻ khôn ngoan ở Eridu, và không chỗ
trách được. Song ông đã làm mếch lòng các thần bởi sự hiểu biết của mình, nên
rồi phải chết, không được ăn thực phẩm sanh mạng. Ông làm cho ai nấy bị bịnh
tật. Các thần nói rằng ông sẽ không được yên nghỉ, và mặc áo tang cho
ông." (Xem sách "Monuments and the Old Testament"
của Price).
Có hai cái ấn thời cổ dường như vẽ đúng bức tranh
mà sách Sáng thế ký đã mô tả bằng lời.
Ấn "Cám dỗ" tìm được giữa các tấm bảng thượng cổ của xứ
Ba-by-lôn và hiện nay đặt ở Anh quốc Bảo tàng viện, dường như liên quan rõ ràng
với truyện tích Vườn Ê-đen. Chính giữa có một cái cây, bên hữu có người nam;
bên tả có người nữ đang hái trái, đằng sau người nữ có con rắn đứng thẳng,
dường như đang nói thầm với bà.
Ấn "A-đam và
Ê-va" do Tấn sĩ E.A. Speiser, thuộc Bảo tàng viện của
Ðại học đường Pennsylvania, tìm thấy
năm 1932, gần chơn gò nỗng Tepe Gawra, cách thành Ni-ni-ve 12 dặm về
phía Bắc. Ông cho rằng ấn nầy có từ năm 3500 T.C., và nó "nhắc lại rõ ràng
truyện tích A-đam và Ê-va: " Một người nam lõa thể và một người nữ lõa
thể, bước đi dường như hoàn toàn thất vọng, có con rắn theo sau. Ấn nầy có
đường kính chừng 2 phân rưỡi, và khắc trên đá. Hiện nay nó đặt tại Bảo tàng
viện của Ðại học đường Philadelphia.
Sự quan trọng của những bi
văn thương cổ nầy. -- Những tài liệu cổ nầy, ghi trên đá và đất sét chính
lúc khởi đầu lịch sử, tại nơi phát tích của loài người, được bảo tồn dưới bụi
đất của các thời đại, và rốt lại bây giờ được cái cuốc của nhà khảo cổ đem ra
ánh sáng, chính là bằng cớ hiển nhiên rằng các nét chính của truyện tích A-đam
trong Kinh Thánh đã in sâu vào tư tưởng của người thượng cổ.
Các truyền thoại khác về sự sa ngã của
loài người
Ba-tư: Tổ tông chúng ta vốn hồn nhiên, đức hạnh, sung
sướng, ở trong một cái vườn, tại đó có cây trường sanh bất tử, cho đến khi một
ác thần mượn hình con rắn hiện ra. Có lẽ họ nhận được truyền thoại nầy nơi
Gia-phết, cũng như dân Hê-bơ-rơ đã nhận được truyền thoại của mình nơi Sem.
Ấn Ðộ: Trong thời đại đầu tiên, loài người không có tội
ác, tật bịnh, muốn chi được nấy, và sống lâu.
Hi-lạp: Trong hoàng kim thời đại, những người đầu tiên
trần truồng, không có tội ác và khổ nạn, được thông công không dứt với các
thần, và đất tự nhiên sanh bông trái.
Trung Hoa: Có truyền thoại về một thời kỳ hạnh phước, khi ấy
người ta có đồ ăn dư dật, và chung quanh có những thú vật sống hòa bình.
Mông Cổ và Tây
Tạng: Cũng có những truyền thoại
tương tự.
Teutons (Ðức
quốc thời xưa): Loài người nguyên thủy hưởng cuộc đời yến tiệc không dứt.
Hết thảy chủng tộc dã man: Có truyền thoại về một tình trạng văn minh hơn.
Chắc hẳn A-đam đã kể lại truyện tích nguyên thủy
của vườn Ê-đen cho Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la kể lại cho Nô-ê, Nô-ê kể lại cho
các con trai mình; rồi trong các nền văn hóa quốc gia, truyện tích nầy đã biến
đổi nhiều cách và thô lậu. Những truyền thoại nầy há chẳng làm chứng về một
thực sự căn bản nguyên thủy sao?
Ðoạn 4 -- Ca-in và A-bên
Giả định rằng khi A-đam và Ê-va mới được dựng nên,
đã thành nhơn rồi, thì lúc giết A-bên, chắc Ca-in chừng 129 tuổi; vì sau đó ít
lâu, Sết đã sanh ra, và lúc ấy A-đam đã 130 tuổi (5:3).
Tế lễ của A-bên (4:4) được Ðức Chúa Trời tiếp nhận vì ông là người
công bình (I Giăng 3:12), và vì ông dâng lên bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:4). Khi
tội lỗi xen vào, thì dường như Ðức Chúa Trời đã truyền lịnh dâng tế lễ như vậy.
Dường như đó là một thứ hình bóng nguyên thủy về Ðấng Christ chịu chết để đền
tội loài người.
Vợ của Ca-in (4:17) chắc là em gái của ông, vì Ê-va là "mẹ
của loài người" (3:20). A-đam có nhiều con trai,con gái mà Kinh Thánh
không kể tên (5:4). Theo truyền thoại, thì ông sanh 33 con trai và 27 con gái.
Như vậy, Ca-in phải sợ ai? (4:14). Trong khoảng 130
năm từ khi A-đam được dựng nên cho đến khi A-bên bị giết, nhiều thế hệ đã sanh
ra, và tổng số loài người có lẽ đã lên tới mấy ngàn người.
Dấu trên mình Ca-in (4:15). Bất cứ dấu nầy là gì, người ta chắc đã
hiểu nghĩa của nó. Ðó chắc là căn nguyên của chữ viết; dấu hình dung một ý
tưởng, và chẳng bao lâu, đã có nhiều dấu khác nhau cho nhiều ý tưởng khác nhau.
Thành của Ca-in (4:17) ở một nơi nào đó về phía Ðông vườn Ê-đen,
có lẽ chỉ là một làng gồm những túp lều thô sơ, có vách phòng vệ chung quanh,
dùng làm trụ sở cho con cháu ông đã bị từ bỏ.
Chủ nghĩa đa thê (4:19) chẳng bao lâu đã tiếp theo tội sát nhơn,
trong gia đình Ca-in. Lúc khởi đầu, Ðức Chúa Trời đã truyền lịnh rằng một người
nam sống chung với một người nữ trong cuộc hôn nhơn (2:24). Nhưng chẳng bao
lâu, người nam đã sắp đặt cách khác.
Bí Chú Khảo Cổ: Sự sử dụng kim khí trong thời
thượng cổ
Khi A-đam còn sống, con cháu ông đã học tập dùng
đồng, sắt và chế ra nhạc cụ (câu 21, 22).
Cách đây ít lâu, người ta cứ tưởng rằng nhơn loại
không biết dùng sắt trước thế kỷ thứ 12. Những danh từ mà nhà sử học đã khảo cổ
học đã dùng để chỉ các bước tấn bộ liên tiếp của nền văn mình là;
Cổ thạch khí thời đại: Dùng những viên đá không mài giũa ra hình chi hết.
Tân thạch khí thời đại: Dùng đá, xương và gỗ có mài giũa ra hình.
Giữa đồng khí và tân thạch
khí thời đại: Chuyển từ dùng đá
qua dùng kim khí.
Thanh đồng thời đại: 2500-1200 T.C..
Thời đại đồ sắt: Từ năm 1200 T.C. trở đi.
Năm 1933, Tấn sĩ H.E. FRANKFORT, thuộc Viện Ðông phương, đã tìm được trong di
tích của thành Asmar, cách Ba-by-lôn
chừng 100 dặm về phía Ðông Bắc, một lưỡi dao làm khoảng 2700 năm T.C.; như vậy,
đã đẩy lui sự biết dùng sắt tới 1500 năm.
Những bi văn thượng cổ đã tỏ ra rằng xứ Ba-by-lôn
chẳng hề có người không quen dùng kim khí ở đó. Ðã tìm thấy dụng cụ bằng đồng
trong di tích của một số đô thị trước nạn nước lụt (xem mục: "Ðoạn 5, sách
Sáng thế ký."
Giác trụ của Weld
ghi tên 10 vị vua trường thọ đã trị vì trước nạn lụt, có nói rằng các vua thứ
3, 5 và 6 trị vì tại một thành tên là "Badgurgurru."
Tên nầy nghĩa là "đô thị của những thợ đồng đỏ." Có lẽ đó là một
truyền thoại về thành của Ca-in (4:17).
"Sách chép dòng dõi của A-đam"
(5:1 đến 6:8)
Ðây là tài liệu thứ ba trong số tài liệu hợp thành
sách Sáng thế ký. Nó chuyển đưa truyện tích tới năm thứ 500 của đời Nô-ê
(5:32). Có lẽ tài liệu nầy do A-đam thuật lại đầu tiên, do Hê-nóc và
Mê-tu-sê-la tiếp tục, rồi do Nô-ê kết thúc. Có lẽ Nô-ê đã ghi tài liệu nầy và
hai tài liệu trước trên những tấm bảng đất sét, rồi đem chôn tại Sippar theo như truyền thoại. Có lẽ ông
cũng sao lại những tấm bảng nầy và đem vào tàu.
Ðoạn 5 -- Gia hệ từ A-đam tới Nô-ê
Tuổi thọ của các ông nầy ghi như sau đây: A-đam,
930 tuổi; Sết, 912 tuổi; Ê-nót, 905 tuổi; Kê-nan, 910 tuổi; Ma-ha-la-le, 895
tuổi; Giê-rệt, 962 tuổi; Hê-nóc, 365 tuổi; Mê-tu-sê-la, 969 tuổi; Lê-méc, 777
tuổi; Nô-ê, 950 tuổi.
Người ta thường giải thích tuổi thượng thọ của các
ông nầy, dựa vào lý thuyết rằng tội lỗi chỉ mới bắt đầu có ảnh hưởng độc hại
trên loài người vốn phát sanh từ một bổn chất nguyên thủy là bất tử. Có người
tưởng đây là tên của những thời kỳ triều đại, chớ chẳng phải của những cá nhơn.
Có người lại tưởng rằng trong thời kỳ đó, một tháng được kể là một năm. Các nhà
phê bình kim thời tự nhiên cho đó là thần thoại.
Những số tuổi trong đoạn nầy cùng với đoạn 6, câu
3, tỏ ra có 1656 năm giữa sự dựng nên loài người và nạn nước lụt. Có người nghĩ
rằng vì gia phổ nầy và gia phổ ở đoạn 11, mỗi cái chỉ có 10 đời, nên có lẽ đã
bị rút ngắn, cũng như gia phổ Ðức Chúa Jêsus ở sách Ma-thi-ơ, đoạn 1, vậy. Song
mấy chữ dùng luôn, là: "tuổi, ... sanh, ... hưởng thọ," chống lại lý
thuyết nầy.
Hê-nóc (câu 21-24)
Ông là người tốt hơn hết cả. Trong một xã hội gian
ác khôn tả xiết, ông đã "đồng đi cùng Ðức Chúa Trời." Ông sanh 622
năm sau khi A-đam được dựng nên, nên đã cùng sống với A-đam 308 năm. "Ðức
Chúa Trời tiếp ông đi" 69 năm trước khi Nô-ê sanh ra, lúc ông mới có 365
tuổi.
Cũng có một người nữa, là Ê-li, được biến hóa như
vậy, không phải chết (II Các vua 2). Có lẽ Hê-nóc và Ê-li được Ðức Chúa Trời
chỉ định để nêu lên trước cái số phận hạnh phước của các thánh đồ còn ở trong
xác thịt khi Chúa tái lâm (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17).
Người Ả-rập có một thần thoại rằng Hê-nóc đã đặt ra
chữ viết. Tân Ước có nhắc đến một lời tiên tri của Hê-nóc (Giu-đe 14).
Mê-tu-sê-la (câu 25-27)
Ông sống lâu nhứt trong số 10
người nầy, đã hưởng thọ 969 tuổi, và là con trai của Hê-nóc. Ông đồng sống với
A-đam 243 năm và với Sem 98 năm: như vậy, ông là cái vòng nối liền vườn Ê-đen
với thế giới trước nạn nước lụt. Ông qua đời chính năm xảy ra nạn nước lụt.
Bí Chú Khảo Cổ: Sự trường thọ trong thời kỳ nguyên thủy
Berosus, một sử gia
Ba-by-lôn, khoảng 300 T.C., đã căn cứ vào các tài liệu trong miễu thờ Marduk mà chép sử; ông sao lục những bi
văn thượng cổ mà phần nhiều đã tìm thấy, rồi kể ra 10 vua trường thọ đã trị vì
trước nạn nước lụt, -- mỗi vua trị vì từ 10 ngàn tới 60 ngàn năm. Tên các vua
ấy là: Aloros, Alaparos, Amelon Ammenon,
Megalaros, Daonos, Eudorachos, Amenpsinos, Otiartes, và Xisuthros. Berosus nói rằng: "Nạn Ðại hồng thủy xảy ra đương thời Xisuthros."
Giác trụ của Weld và các bi văn ở Nippur cũng phù hợp với Berosus về mỗi đời trị vì lâu tới hàng
vạn năm, nhưng lại kể tên các vua trước nạn nước lụt như sau đây:
Alulim trị vì tại Eridu 28.000 năm
Alalmar trị vì tại Eridu 36.000 năm
Emenluanna trị vì tại Badgurgurru
43.000 năm
Kichunna trị vì tại Larsa 43.000 năm
Enmangalanna trị vì tại Badgurgurru
28.000 năm
Dumuzi trị vì tại Badgurgurru
36.000 năm
Sibzianna trị vì tại Larak 28.000 năm
Emenduranna trị vì tại Sippar 21.000 năm
Uburratum trị vì tại Shuruppak
18.000 năm
Zinsuddu (Utnapishtim) trị vì tại Shuruppak 64.000
năm
"Rồi nước lụt phá
hoại mặt đất."
Ðó chắc cũng là những vua mà Berosus đã ghi chép, song sau khi tiếng
nói lộn xộn tại Ba-bên, thì tên đã kêu khác đi. Những tấm bảng ghi các tên nầy
đã viết sau khi thời kỳ lịch sử bắt đầu. Khi nói về những thời kỳ tiền sử,
dường như người đời xưa cũng bị cám dỗ như người đời nay, -- ấy là tăng gia quá
đáng số năm của thế giới nguyên thủy.
Ngoài người Ba-by-lôn ra,
người Ba-tư, Ai-cập, Ấn-độ, Hy-lạp và nhiều dân khác cũng có truyền thoại về
những người thượng cổ trên mặt đất sống rất lâu. Các truyền thoại ấy từ đâu mà
có, nếu chẳng phải là vì những người thượng cổ thật đã sống lâu?
Bí Chú Khảo Cổ: Ðào bới tại các đô thị trước nạn nước lụt
Người ta đã xác định được
những đô thị ghi trên đây là nơi trị vì của các vua trước nạn nước lụt, trừ ra Badgurgurru.
Cuộc đào bới di tích của những đô thị nầy và của nhiều đô thị khác trước nạn
nước lụt, đã đem ra ánh sáng nhiều đặc điểm của sự sanh hoạt trước nạn nước lụt
và đã cho ta thấy thế giới của những đoạn đầu sách Sáng thế ký là xác thực.
Trong số các đô thị trước nạn
nước lụt mà người ta đào bới lên có: Eridu,
'Obeid, Ê-rết (Sáng thế ký 10:10), Sura, Tepe, Gawra, U-rơ, Kish, Fara (Shuruppak), Sippar (A-cát -- Sáng thế ký 10:10), Larsa, Jemdet Nasr. Nhờ di tích
của những đô thị nầy, các nhà khảo cổ đã tiến đến gần sát khởi điểm đời sống
định cư tại xứ Ba-by-lôn.
Trong số di vật của những dân
tộc trước nạn nước lụt mà người ta tìm thấy ở các đóng hoang tàn nầy, có đồ gốm
tô màu; đồ dùng bằng đá lửa; đồ dùng bằng hắc diệu thạch (obsidienne); bình bằng lam ngọc; rìu bằng đồng; gương soi bằng
đồng; cuốc; lưỡi liềm; các thứ đồ dùng bằng đá, đá lửa, đá thạch anh; lưỡi câu;
các kiểu thuyền; một lò nung ở dưới đất; nhiều mẫu đồ gốm hóa thành pha-lê
tuyệt đẹp; thuốc mà phụ nữ thời tiền sử dùng để kẻ lông mày và mí mắt; di tích
bằng gạch của các miễu thờ, -- gạch nầy tô màu đỏ hoặc trát hồ; đồ gốm có vẽ
hình màu rất đẹp, như mẫu kỷ hà học phức tạp, chim, một cái xe ngựa; và những
công trình kiến trúc chứng tỏ "một nền văn minh tấn bộ lạ lùng."
Ðoạn 6:1-8 -- Tội ác thời
trước nạn nước lụt
"Các con trai của Ðức Chúa Trời" (6:2)
Người ta tưởng rằng các con
trai nầy hoặc là thiên sứ sa ngã mà thơ II Phi-e-rơ 2:4 và Giu-đe 6 có nói đến,
hoặc là những thủ lãnh trong gia tộc Sết đã cưới gả lẫn lộn với dòng dõi Ca-in
không kính thờ Ðức Chúa Trời. Những cuộc hôn nhơn trái lẽ thường nầy, bất cứ là
thể nào, cũng đã làm cho trái đất đầy dẫy bại hoại và hung bạo.
Ðức Chúa Jêsus kể nạn nước lụt
là một thực sự lịch sử, và Ngài đã ví sánh ngày tái lâm của Ngài với thời kỳ
Nô-ê (Ma-thi-ơ 24:27-29). Những việc đang xảy ra trên thế giới ngày nay khiến
chúng ta tự hỏi phải chăng chính lúc nầy, thời kỳ Nô-ê có thể tái diễn?
Số "120 năm" ở 6:3
dường như chỉ về khoảng triển hạn nạn nước lụt. Hoặc nó cũng có nghĩa là đời
người bị rút ngắn, chớ không lâu dài như có chép ở đoạn 5 nữa.
"Dòng dõi của Nô-ê" (6:9 đến 9:28)
Ðây là tài liệu thứ tư trong
số các tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Tài liệu nầy gồm truyện tích nạn
nước lụt mà Nô-ê đã thuật và có lẽ cũng đã ghi chép, rồi do Sem truyền lại cho
Áp-ra-ham.
Ðoạn 6:9-18 -- Nô-ê và chiếc tàu
Chiếc tàu dài chừng 140 thước
tây, rộng chừng 23 thước tây, và cao chừng 14 thước tây. Nó có ba từng, chia
làm nhiều phòng, và có cửa sổ chung quanh mái. Có người tính rằng tàu chở nặng
được chừng 40 ngàn tấn. Nó lớn bằng những chiếc tàu vượt biển ngày nay. Loài
người vốn sống trên bờ một con sông lớn, nên đóng tàu là một trong những công
tác đầu tiên của họ. Những tấm bảng chữ tiết hình tỏ ra rằng lúc khởi đầu lịch
sử, dân xứ Ba-by-lôn chuyên du hành trên sông và biển. Theo truyền thoại của xứ
Ba-by-lôn, thì Nô-ê ở tại Fara, trên
sông Ơ-phơ-rát, cách vị trí vườn Ê-đen chừng 70 dặm về phía Tây bắc. Vậy, từ
khi còn thơ ấu, Nô-ê chắc đã thông thạo việc đóng tàu và du hành trên sông.
Ðoạn 6:19 đến 7:5 -- Các thú vật
Ðoạn 6:19-21 và 7:2 chép rằng
phải đem vào tàu bảy cặp của mỗi loại thú vật tinh sạch, còn những thú vật khác
thì mỗi loài chỉ đem vào một cặp thôi. Có người tính rằng trong tàu có đủ chỗ
cho 7000 loài thú vật. Khi tập hợp thú vật, chắc họ đã lựa chọn những con còn
non. Vả, người ta cũng nói rằng thường khi thú dữ cảm thấy trước một tai họa
sắp xảy ra, và trở nên hiền lành.
Ðóng tàu, tập hợp thú vật và
tích trữ lương thực, thật là một công việc lớn lao! Nô-ê và ba con trai ông
không thể làm việc ấy một mình. Ông là cháu nội của của Mê-tu-sê-la và chắc nội
của Hê-nóc, nên theo truyền thoại xứ Ba-by-lôn, ông có thể làm vua một thành và
dùng hàng ngàn người làm công việc ấy. Có lẽ ông đã dành phần lớn 120 năm kia
để làm việc ấy. Chắc ông bị chúng chế giễu luôn, nhưng cứ mạnh mẽ trong đức tin
(II Phi-e-rơ 2:5; Hê-bơ-rơ 11:7).
Ðoạn 7:6 đến 8:19 -- Nước lụt
"Các nguồn của vực lớn nổ
ra, và các đập trên trời mở xuống" (7:11). Thung lũng sông Ơ-phơ-rát hầu
như có thể gọi là eo đất của đông bán cầu, tại đó Ðịa Trung Hải và Ấn Ðộ dương
đến gần nhau, và gần chia Phi Châu ở phía Nam với Âu Châu và Á Châu ở phía Bắc.
Xứ ạc-mê-ni có nhiều núi non gần giống như một quần đảo, có biển Caspienne,
Hắc Hải ở phía Bắc, Ðịa Trung Hải ở phía Tây, vịnh Ba Tư và Ấn Ðộ dương ở phía
Nam. Nếu một đại tai biến làm cho đất vùng nầy sụt xuống, thì nước bèn từ các
biển trên đây tràn vào, cũng như mưa từ trời đổ xuống.
Phạm vi của nước lụt
"Hết thảy những ngọn núi
cao ở dưới trời đều bị ngập... Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết
ngột" (7:19, 21). Chắc đây là chính lời Sem đã dùng để thuật lại hoặc viết
ra truyện tích nước lụt cho các con và cháu biết. Ông thuật theo điều mắt mình
thấy. Chúng ta phải giải thích lời ông theo môn địa dư riêng của ông, hay là
theo môn địa dư kim thời? Cả loài người bị tiêu diệt, trừ ra Nô-ê và gia đình
ông. Muốn tiêu diệt loài người, nước lụt chỉ cần bao phủ miền đất có người ở.
Nếu ta nhìn nhận truyện tích Kinh Thánh, thì chỉ có Mười thế hệ kể từ
A-đam, là người thứ nhứt. Vậy, Một gia đình, trong Mười thế hệ,
với những phương tiện du lịch thượng cổ, sao hay ở khắp mặt đất được? Có lẽ
lắm, loài người chưa tràn ra xa hơn lưu vực sông Ơ-phơ-rát. Tuy nhiên, có người
tưởng nước lụt thật đã bao phủ cả địa cầu mà ta được biết ngày nay, tức là địa
cầu mà bề mặt trải qua cuộc biến cải lớn lao sau chót lúc chấm hết thời kỳ băng
giá.
Bản đồ số 21
Thời gian ở trong tàu
Nô-ê vào tàu 7 ngày trước khi trời bắt đầu mưa
(7:4, 10). Trời bắt đầu mưa ngày 17, tháng 2, năm thứ 600 của đời Nô-ê (7:11). Mưa sa trọn 40 ngày,
đêm (7:12). Nước bao phủ mặt đất 150 ngày (7:24; 8:3). Ngày 17, tháng 7, tàu
tấp xuống. Ngày 1, tháng 10, chót núi lộ ra, mắt thấy được (8:5). Giở mui tàu
ngày 1, tháng giêng, năm 601 của đời Nô-ê (8:13). Ra khỏi tàu ngày 27, tháng 2
(8:14-19). Ở trong tàu nổi trên nước 1 năm, 17 ngày; ở trong tàu tấp trên núi 7
tháng.
Núi A-ra-rát
Sau khi trôi giạt xa nơi đã
đóng chừng 500 dặm, tàu bèn tấp xuống một đỉnh trong dãy núi xứ ạc-mê-ni, gọi
là A-ra-rát, cách Ni-ni-ve 200 dặm về phía Bắc. Núi A-ra-rát cao chừng 5100 thước. Dưới chơn núi có đô thị tên là
Naxuana, hoặc Nakhichevan, và người ta tưởng phần mộ Nô-ê ở đây, vì tên nầy
nghĩa là: "Nô-ê định cư tại đây."
Ðoạn 8:20 đến 9:17 -- Cái mống
Nếu theo như một vài nhà địa chất học suy tưởng, đã
có nhiều lần nước lụt trước nạn Ðại hồng thủy nầy vì cớ mặt đất thường bị biến
cải, thì với một khí hậu nóng hơn sanh ra mật độ ẩm ướt trong bầu không khí, sự
thay đổi địa chất lớn lao nầy có thể kết quả làm cho khí trời trong trẻo hơn,
thấy rõ cái mống được. Ðức Chúa Trời đã chỉ định cái mống làm dấu hiệu cho giao
ước Ngài lập với loài người rằng sẽ không có nạn nước lụt như vậy nữa (9:8-17).
Sau nầy trái đất sẽ bị hủy diệt bằng lửa (II Phi-e-rơ 3:7).
Ðoạn 9:18-28 -- Lời tiên tri của Nô-ê (9:25-27)
Dòng dõi của Cham sẽ là những chủng tộc tôi tớ; dòng
dõi của Sem sẽ bảo tồn sự hiểu biết Ðức Chúa Trời chơn thật; các chủng tộc
Gia-phết sẽ có phần rộng lớn nhất của thế giới, và sẽ thay thế các chủng tộc
Sem để giảng dạy về Ðức Chúa Trời. Lời tiên tri nầy được ứng nghiệm khi dân
Y-sơ-ra-ên chiếm xứ Ca-na-an, người Hy-lạp chiếm thành Si-đôn, và người La-mã
chiếm xứ Carthage. Từ đó tới nay, các
chủng tộc Gia-phết làm bá chủ thế giới và trở lại tin thờ Ðức Chúa Trời của
Sem; còn các chủng tộc Sem đã chiếm một địa vị tương đối không quan trọng, và
các chủng tộc Cham ở địa vị tôi tớ. Thật là một lời tiên tri lạ lùng về lịch
sử!
Phúc trình tìm được chiếc tàu Nô-ê
Trong một số ấn phẩm có báo cáo rằng ngay trước
cuộc cách mạng Bôn-sơ-vích, một nhóm phi công Nga quả quyết rằng đã thấy sườn
chiếc tàu lớn ở trên băng hà đông đặc của núi A-ra-rát, không sao tới gần được.
Họ đã phúc trình sự khám phá ấy với chánh phủ Nga. Liền đó, Nga Hoàng cử một
phái đoàn đi; họ tìm thấy chiếc tàu, bèn đo, vẽ và chụp hình. Chính lúc đó,
chánh phủ của Nga Hoàng bị phe Bôn-sơ-vích vô thần lật đổ, và những bản phúc
trình ấy không hề được công bố. Chúng ta hãy hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ có
cuộc điều tra về chiếc tàu Nô-ê.
Truyền thoại của xứ Ba-by-lôn về nạn
nước lụt
Theo như Berosus
kể lại (300 năm T.C.), các tài liệu lưu trữ trong miễu thờ Marduk, ở thành Ba-by-lôn, có ghi nhắc truyện tích nầy. Một vua,
tên là Xisuthros, đã được một thần
cảnh cáo phải đóng tàu, đem bạn hữu, bà con, mọi loài thú vật vào đó, cùng đủ
thứ lương thực cần thiết. Liền đó, vua nầy đóng một chiếc tàu rất lớn, trên cạn
xứ ạc-mê-ni. Khi nước lụt rút rồi, vua thả nhiều chim ra; đến lần thứ ba, chúng
không trở lại nữa. Vua bèn ra khỏi tàu, dựng một bàn thờ và dâng tế lễ. Một bản
cũ hơn của truyền thoại nầy có ghi trên những Tấm Bảng Nước Lụt mà George Smith tìm được năm 1872 tại Ni-ni-ve.
Những truyền thoại khác
Người Ai-cập có một truyền thoại rằng có lần các thần đã tẩy uế
trái đất bằng một Ðại hồng thủy, chỉ có mấy người chăn chiên chạy lên núi thoát
nạn.
Truyền thoại Hy-lạp: Deucalion
được cảnh cáo rằng các thần sắp làm nước lụt trên trái đất vì cớ sự gian ác gớm
ghê của nó. Ông bèn đóng một chiếc tàu, và tàu tấp trên núi Parnassus. Ông thả một con bò câu ra hai
lần.
Truyền thoại Ấn-độ: Manu
được cảnh cáo, bèn đóng một chiếc tàu, nhờ đó một mình ông thoát nạn nước lụt
tiêu diệt muôn loài.
Truyền thoại Trung Hoa: Truyện kể rằng Fa-He, người sáng lập nền văn minh
Trung Hoa, đã cùng vợ, ba con trai và ba con gái thoát nạn nước lụt xảy ra vì
cớ loài người đã dấy nghịch cùng Thượng Ðế.
Truyền thoại nước Anh:
Các tế sư (Druides) kể một thần thoại
rằng thế giới lại có dân ở là do một tộc trưởng công bình, đạo đức đã nhờ ở
trong chiếc tàu lớn mới thoát khỏi nạn nước lụt của Ðấng Chí Cao làm ra để hủy
diệt loài người gian ác.
Dân miền Polynésie: (Úc Châu): Có truyện tích về một nạn nước lụt, có
8 người nhờ chiếc xuồng mà thoát nạn.
Dân Mễ-tây-cơ: Một người cùng vợ con nhờ chiếc tàu mà được cứu
khỏi nạn nước lụt bao phủ trái đất.
Dân Pérou: (Nam Mỹ Châu): Một người nam và một người nữ được
cứu trong một cái thùng nổi trên nước lụt.
Người Da đỏ ở nước Mỹ: Có nhiều thần thoại, theo đó, 1, 3, hoặc 8 người
đã được cứu trong chiếc tàu nổi trên nước ngập ngọn núi cao.
Ðảo Greenland: Có lần trái đất nghiêng đi, mọi người chết đuối,
trừ ra một người nam và một người nữ; về sau, họ lại sanh ra người trên mặt
đất. Xin xem quyển "International
Standard Bible Encyclopaedia."
Truyền thoại phổ thông
Người Ba-by-lôn, A-si-ri, Ai-cập, Ba-tư, Ấn-độ,
Hy-lạp, Trung-hoa, người xứ Phrygie, dân đảo Fiji, người Esquimaux,
thổ dân Mỹ-châu, người Da-đỏ, người Ba-tây, dân xứ Pérou, và mọi nhánh của toàn thể loài người (Sémitique, Aryen, Turanien) đều có những truyền thoại về
một Ðại-hồng thủy tiêu diệt cả loài người, trừ ra một gia đình. Những truyền
thoại nầy in sâu vào trí nhớ của tổ tiên mọi chủng tộc đó trước khi họ phân rẽ
nhau. "Ta chỉ có thể hiểu những thần thoại nầy nếu giả định rằng một biến
cố như vậy thật đã xảy ra. Một sự tin tưởng phổ thông dường ấy đã không phát
sanh từ một yếu tố trực giác của bổn chất chúng ta, ắt phải căn cứ trên một thực
sự lịch sử.
Bí Chú Khảo Cổ: Những tấm bảng ghi chép nạn nước
lụt
Năm 1872, ông George
Smith, nhơn viên Anh quốc Bảo tàng
viện, đã tìm thấy trên các tấm bảng lấy ở thơ viện Assurbanipal, tại Ni-ni-ve, những truyện tích về nạn nước lụt giống
hệt truyện tích trong Kinh Thánh. Người ta đã sao lại những truyện tích nầy
trên các tấm bảng có từ triều đại thứ nhứt của thành U-rơ, tức là thời gian
giữa nạn nước lụt và đời Áp-ra-ham. Người ta đã tìm thấy nhiều tấm bảng đó,
trên đó thường lặp lại mấy lời nầy: "Nước Lụt" -- "Thời kỳ trước
nạn nước lụt" -- "Các bi văn của thời kỳ trước nạn nước lụt."
Giác trụ bằng đất sét ghi tên 10 vua trường thọ trị vì trước nạn nước lụt, sau
khi ghi tên vua thứ 10, có thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt phá hủy đất."
Nô-ê của xứ Ba-by-lôn thuật truyện tích
nước lụt
Ðây là một phần của tài liệu gọi là: "Bản Anh
hùng ca của Gilgamesh." Gilgamesh làm vua thứ 5 của triều đại
Ê-rết, là một trong những triều đại đầu tiên sau nạn nước lụt. Bản anh hùng ca
nầy tường thuật các cuộc phiêu lưu của ông; trong một cuộc phiêu lưu ấy, ông đã
tới thăm hòn đảo là nơi cư trú của Utnaspishtim,
Nô-ê của xứ Ba-by-lôn, để tìm kiếm bí quyết được sự sống đời đời mà ông tưởng Utnaspishtim biết rõ. Cuộc viếng thăm
nầy được mô tả trên một cái ấn mới tìm thấy ít lâu nay tại Tell Billa, gần Ni-ni-ve.
Trong lời giải đáp cho Gilgamesh, Utnaspishtim (Nô-ê) kể lại truyện tích
nước lụt và mình đã thoát nạn thể nào. Truyện tích của ông được ghi trên nhiều
tấm bảng và tấm bảng nầy có chi tiết khác tấm bảng kia. Ðại ý như sau đây: Hội
nghị các thần quyết định làm nước lụt. Các thần nói rằng: "Nguyện tội lỗi
của tội nhân đổ trên mình nó! Hỡi người ở Shuruppark,
hãy đóng một chiếc tàu để cứu mạng ngươi! Hãy đóng tàu có 6 từng, mỗi từng có 7
phòng. Bên trong và bên ngoài phải trét nhựa lịch thanh. Hãy thả tàu xuống biển
cả. Hãy đem vào mọi loài thú vật để làm giống." Tôi đã dùng mọi vật liệu
mình có để đóng tàu. Tôi đem vào đó bạc, vàng, cùng mọi loài sanh vật mình có.
Tôi cùng gia đình và bà con, họ hàng lên tàu. Tôi đóng cửa lại. Ðã tới giờ
định. Tôi ngắm xem ngày ấy hiện ra, thật là khủng khiếp. Ánh sáng đổi ra tối
tăm hết. Mưa sa dồn dập, bão tố gào thét, chẳng khác gì một trận tấn công loài
người. Chiếc tàu rung rinh. Các thần khóc lóc. Tôi nhìn ra biển. Cả loài
người biến thành đất sét, và giống như những khúc gỗ trôi giạt đó đây. Bão tố
dứt, nước lụt đã hết, tàu tấp trên núi Nazir.
Ngày thứ bảy, tôi thả một con bò câu ra, và nó quay về. Tôi thả một con chim
yến ra, nó cũng quay về. Tôi thả một con quạ ra; nó đậu xuống, đi đi lại lại,
kêu lên, mà không quay về. Tôi ra khỏi tàu và dâng một tế lễ. Các thần ngửi mùi
thơm và nói rằng: "Sẽ không làm như vậy nữa." Lại rằng: "Trước
kia, Utnaspishtim là một người; bây
giờ hãy cho hắn được bất tử y như chúng ta, hãy cho hắn ở thật xa, nơi các cửa
sông."
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống tại U-rơ
Dầu những truyền thoại về nạn
nước lụt nầy pha lẫn chủ nghĩa đa thần và một phần truyện thần tiên rõ rệt,
nhưng cũng tỏ ra rằng nạn nước lụt đã thành một sự thực in sâu trong trí nhớ
của những người ở xứ Ba-by-lôn thời cổ. Ngày nay, cách đây mấy năm, người ta đã
tìm thấy một lớp bùn, chắc do nạn nước lụt làm lắng xuống, tại ba chỗ: Tại
U-rơ, cách vị trí (theo truyền thoại) của vườn Ê-đen 12 dặm; tại Fara, nơi cư trú (theo truyền thoại) của
Nô-ê, cách 60 dặm nữa ngược dòng sông; và tại Kish, một vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, cách thêm 100 dặm nữa ngược
dòng sông; có lẽ tại một chỗ thứ tư nữa, là thành Ni-ni-ve, phải đi 300 dặm nữa
ngược dòng sông mới tới.
Năm 1929, tại U-rơ, nơi sanh
trưởng của Áp-ra-ham, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện,
dưới quyền điều khiển của Tấn sĩ C.L.
Woolley, đã tìm thấy, gần chơn các gò nỗng U-rơ, bên dưới nhiều lớp chứng
tỏ có loài người chiếm cứ, một vùng đất sét lớn và cứng, do nước lụt làm lắng
xuống, dày chừng 2 thước rưỡi. Vùng đất sét nầy không có lẫn di vật của loài
người, nhưng có di tích của một đô thị khác chôn vùi bên dưới. Tấn sĩ Woolley nói rằng 2 thước rưỡi đất lắng
khiến ta hiểu rằng nước đã ở đó sâu lắm và lâu lắm; lại nữa, nước không thể tới
đó do các dòng sông thường chảy, nhưng chỉ do một nạn nước lụt lớn lao như Kinh
Thánh đã mô tả. Nền văn minh ở dưới lớp bùn do nước lụt làm lắng xuống đó khác
hẳn nền văn minh ở trên lớp ấy, đến nỗi nó cho Tấn sĩ Woolley nhận thấy "dòng lịch sử đã thình lình có sự gián đoạn
kinh khủng." (Xem sách "Ur of the Chaldees"(1) Của Woolley).
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống
tại Kish
Kish (Ukheimer,
El-Ohemer, Uhaimir) ở phía
Ðông Ba-by-lôn, trên một khu lòng sông Ơ-phơ-rát hiện nay đã khô cạn. Theo các
tấm bảng đã ghi, thì Kish là đô thị đầu tiên được xây dựng lại sau nạn nước
lụt, trên chính vị trí cũ.
Bản đồ số 22
Năm 1928-1929, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng
viện Field và Ðại học đường Oxford,
do Tấn sĩ Stephen Langdon điều khiển, đã tìm thấy lớp đất
sét sạch sẽ do nước làm lắng xuống, giữa những lớp dưới của di tích thành Kish.
Lớp đất sét nầy dày 1 thước 60 phân, tỏ ra đã có nước lụt lớn lắm. Người ta
thấy lớp đất sét do nước lụt làm lắng xuống ở ngay trên di tích của vách thành.
Nó không chứa đồ vật bất cứ thuộc loại nào. Tấn sĩ Langdon bàn rằng có thể là
nước lụt đã chép trong Kinh Thánh. Những di vật ở dưới lớp đất sét nầy bày tỏ
một nền văn hóa khác hẳn. Trong số những di vật tìm thấy, có một chiếc xe ngựa
bốn bánh, bánh xe làm bằng gỗ và đóng đinh đồng, cùng với các bộ xương của
những thú vật kéo nó nằm giữa các càng xe. Xem sách "Field Museum Oxford University Expedition to Kish," của Henry Field, quyển 28.
Bí Chú Khảo Cổ: Lớp do nước lụt làm lắng xuống tại
Fara
Fara (Shuruppark, Sukkurru), nơi cư trú của ông Nô-ê xứ Ba-by-lôn, giữa đường
Ba-by-lôn và U-rơ. Ngày xưa ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát; ngày nay ở cách 40 dặm về
phía Ðông. Ðây là một nhóm gò nỗng thấp, bị cát của sa mạc dồi dập. Năm 1931,
Tấn sĩ Eric Schmidt, nhơn viên Bảo
tàng viện Ðại học đường Pennsylvania,
đã đào bới Fara. Ông tìm thấy di tích
của ba đô thị: Ðô thị ở trên hết, đồng thời với triều đại thứ 3 tại U-rơ; đô
thị ở giữa là của dân Sumériens
thượng cổ; còn đô thị ở dưới cùng thuộc về thời kỳ trước nạn nước lụt.
Lớp do nước lụt làm lắng xuống ở giữa đô thị chính
giữa và đô thị dưới cùng. Ðây là lớp bùn màu vàng, tức là cát trộn lẫn với đất
sét; chắc chắn là phù sa do nước làm lắng xuống và đóng cứng lại. Không có di
tích tỏ ra loài người đã cư trú. Dưới lớp do nước lụt làm lắng xuống còn có một
lớp than và tro, những cái sót lại của một nền văn hóa đã biến ra màu sẫm, có
lẽ là di tích của vách tường, đồ gốm tô màu, những bộ xương, ấn hình trụ, ấn
dùng đóng dấu, nồi, chảo, bình, với một hình thái tỏ ra rằng dân chúng đã
"vội vã dời khỏi nhà, bỏ lại hết tài sản." (Hãy xem "University Museum Journal,"
tháng 9, 1931).
Cũng tại Ni-ni-ve nữa chăng? Trong tạp chí "Annals of Archaeology and Anthropology,"
quyển XX, trang 134-35, ông Mallowan,
quản đốc công cuộc đào bới của Anh quốc Bảo tàng viện tại Ni-ni-ve (1932-33),
có mô tả việc đào một cái hầm tại Gò nỗng Lớn, từ đỉnh tới đất chưa khai phá
chừng 81 thước tây. Ông tuyên bố rằng 63 thước trong số 81 thước đó gồm năm lớp
cư trú tiền sử. Lại nữa, chừng nửa đường, giữa lớp thứ hai và lớp thứ ba tính
từ dưới lên, có một lớp dày chừng 2 thước rưỡi, gồm những lớp bùn nhớt và cát
sông liên tiếp nhau, có 13 ngấn đặc biệt. Theo ý kiến ông, nó tỏ ra đã có một
loạt mùa mưa rất lớn. Ðồ gốm ở dưới lớp ướt và đồ gốm ở trên lớp ướt khác nhau
rõ rệt. Ðó có phải là vật do Ðại hồng thủy làm lắng xuống chăng?
"Dòng dõi của ba con trai của Nô-ê" (10:1 đến 11:9)
Ðây là tài liệu thứ năm trong
số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký, có lẽ do Sem soạn thảo rồi trao cho
Áp-ra-ham; Sem đã sống từ 98 năm trước nạn nước lụt tới 150 năm sau khi
Áp-ra-ham sanh ra (11:10).
Ðoạn 10 -- Các dân tộc dòng dõi của Nô-ê
Gia quyến Nô-ê ra khỏi tàu
trên núi A-ra-rát, gần thượng lưu sông Ơ-phơ-rát. Rồi dường như họ đã di cư
xuống xa 500 dặm về phía Ðông Nam, và định cư tại xứ Ba-by-lôn, là nơi họ cư
trú trước nạn nước lụt. Rồi 100 năm sau, họ bị tan lạc vì cớ tiếng nói lộn xộn
(10:25).
Bản đồ số 23 -- Nơi tàu Nô-ê tấp xuống
Dòng dõi của Gia-phết -- Các dân tộc ở phía Bắc (2-5)
Chi tộc Gia-phết đi về phía Bắc, định cư tại những
miền chung quanh Hắc hải và biển Caspienne;
họ trở thành tổ tiên các đại chủng tộc Caucasiennes
ở Âu Châu và Á Châu. Người Hy-lạp có một truyền thoại rằng "lapetos" (Gia-phết?) là tổ tông
loài người.
Dòng dõi của Cham -- Các dân tộc phía
Nam (6-20)
Chi tộc Cham đi về phía Nam. Các tên chép đây dường
như chỉ về nam bộ và trung bộ A-ra-bi, Ai-cập, bờ phía Ðông của Ðịa Trung Hải,
và miền duyên hải phía Ðông Phi Châu. Ca-na-an, con trai của Cham, và dòng dõi
người định cư tại xứ (họ lấy tên Ca-na-an đặt cho xứ nầy) sau nầy trở thành tổ
quốc của dân Do-thái. Ai-cập vốn có tên là "Xứ của Cham". Có lẽ chính
Cham đã dẫn đầu cuộc di cư qua Ai-cập. Tên "Khen," một vị thần
Ai-cập, tương đương với chữ "Cham" trong tiếng Hê-bơ-rơ. Ai-cập cũng
có tên là "Mizraim"
(Mích-ra-im), tức là tên của con trai Cham. Nim-rốt là một người thuộc chi tộc
Cham.
Dòng dõi của Sem -- Các dân tộc phía Trung (21-31)
Chi tộc Sem gồm người Do-thái,
A-si-ri, Sy-ri, Ê-lam ở phần Bắc thung lũng sông Ơ-phơ-rát và phụ cận. "Giô-báp"
ở câu 29 có lẽ là Gióp.
Nim-rốt (8-12)
Nim-rốt là vị lãnh tụ lừng
danh nhứt trong khoảng 400 năm giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham. Ông là cháu nội
của Cham (câu 8), và sanh ra ít lâu sau nạn nước lụt. Xét theo các tuổi ghi ở
11:10-16, thì có lẽ ông đã sống suốt cả thời kỳ nầy. Ông là một người rất mạo
hiểm.
Ông nổi danh là "một tay
thợ săn can đảm" (10:9); ấy có nghĩa là ông che chở nhơn dân trong một
thời kỳ mà thú dữ luôn luôn gây mối đe dọa. Trên các ấn và di vật thượng cổ của
xứ Ba-by-lôn thường có hình một vua đang chiến thắng con sư tử. Ðó có thể là
một truyền thoại về Nim-rốt.
Vì có dục vọng kiểm soát loài
người mau gia tăng và lan tràn, nên Nim-rốt dường như đã làm thủ lãnh công cuộc
xây tháp Ba-bên (10:10; 11:9). Sau khi tiếng nói bị lộn xộn và dân chúng bị tan
lạc, thì Nim-rốt lại bắt tay xây cất Ba-by-lôn. Ông cũng xây cất ba đô thị tiếp
cận nữa, là Ê-rết, A-cát, Ca-ne (câu 10), và củng cố các đô thị ấy thành một
nước dưới quyền trị vì của mình. Các đô thị và vương quốc thời ấy rất nhỏ,
nhưng đó là khởi điểm của đế quốc chủ nghĩa.
Từ lâu, Ba-by-lôn được gọi là
"Xứ sở của Nim-rốt." Về sau, Nim-rốt được tôn làm thần của Ba-by-lôn,
và tên ông giống như tên "Mê-rô-đác" (xem Giê-rê-mi 50:2).
Nim-rốt còn có dục vọng kiểm
soát chủng tộc ngày càng lan rộng, bèn đi thêm 300 dặm về phía Bắc, và lập
thành Ni-ni-ve (dầu có một bản chép là Asshur)
cùng ba đô thị tiếp cận, là Rê-hô-bô-ti, Ca-lách, Rê-sen (Sáng thế ký 10:11,
12). Miền nầy là nước phía Bắc của Nim-rốt. Trải qua nhiều thế kỷ về sau, hai
thành Ba-by-lôn và Ni-ni-ve nầy, do Nim-rốt sáng lập, là những đô thị lớn nhứt
thế giới. Có người cho rằng Nim-rốt chính là Gilgamesh, vua thứ năm của triều đại Ê-rết.
Các bi văn chữ tiết hình bày
tỏ rằng Ni-ni-ve đã bị Ba-by-lôn chiếm làm thuộc địa; đó là khảo cổ học đã xác
nhận sách Sáng thế ký (10:11).
Bản đồ số 24 -- Căn nguyên của
các dân tộc
Ðoạn 11 -- Từ nước lụt tới Áp-ra-ham
Tháp Ba-bên và tiếng nói lộn xộn (1-9)
Tiếng nói lộn xộn xảy ra nhằm thế hệ thứ tư sau nạn
nước lụt, vào khoảng Bê-léc sanh ra (10:25); vả, Bê-léc sanh ra 101 năm sau nạn
nước lụt, và 326 năm trước khi Áp-ra-ham được Chúa kêu gọi (10-26). Ấy là cách
Ðức Chúa Trời làm tan lạc loài người ngõ hầu họ thi hành phận sự "làm cho
đất phục tùng" (Sáng thế ký 1:28). Tiếng nói lộn xộn có thể giải thích một
phần tại sao có nhiều thần và tại sao những người sống trước nạn nước lụt có
nhiều tên khác nhau.
Công trình xây cất tháp Ba-bên đã bị tạm thời đình
chỉ; nhưng chẳng bao lâu, những kẻ cứ ở xứ Ba-by-lôn đã xây cất nó lại, và tháp
làm trung tâm để xấy cất thành Ba-by-lôn chung quanh. Tháp nầy làm kiểu mẫu để
xây nhiều tháp tương tự trong những đô thị khác của xứ Ba-by-lôn, và có lẽ gợi
hình cho các Kim-tự-tháp sau đó ít lâu đã bắt đầu mọc lên tại Ai-cập.
Bí Chú Khảo Cổ: Vị trí tháp Ba-bên
Theo truyền thoại, tháp Ba-bên ở tại Borsippa, cách trung tâm Ba-by-lôn 10
dặm về phía Tây nam. Huân tước Henry Rawlinson tìm thấy ở một góc nền nhà,
trong thành Borsippa, một hình trụ có
ghi như vầy: "Một vua thời xưa đã xây tháp Borsippa, cao tới gần 20 thước tây; nhưng ông không xây xong đỉnh
tháp, và tháp đã đổ nát từ thời xưa. Người ta không cẩn thận giữ gìn cống nước
của tháp nầy. Mưa và bão đã cuốn gạch đi, và ngói trên mái cũng bể. Vị thần oai
mạnh Marduk đã thúc giục tôi xây tháp
lại. Tôi không thay đổi vị trí hoặc tường nền của nó. Gặp lúc thuận tiện, tôi
lại xây gạch, lợp mái ngói, và viết tên tôi trên hiên của tháp. Tôi xây lại y
như bao nhiêu đời trước, và dựng vòm trên chót tháp giống như thời xưa."
Ðây có vẻ như một truyền thoại về tháp Ba-bên xây lở dở.
Các nhà khảo cổ thường nghĩ rằng có lý hơn là vị
trí thật của tháp Ba-bên ở trung tâm thành Ba-by-lôn, và nó chính là di tích ở
ngay phía Bắc miễu thờ Marduk. Ông G.Smith tìm thấy một tấm bảng ghi rằng:
"Sự xây cất tháp trứ danh nầy làm mếch lòng các thần. Trong một đêm, các
thần phá hủy công trình xây cất của họ. Các thần khiến họ tan lạc khắp nơi, và
làm lộn xộn tiếng nói của họ. Các thần ngăn cản bước tiến của họ. Các thần khóc
lóc thảm thiết vì cớ Ba-by-lôn." Ðây dường như là một truyền thoại về tháp
Ba-bên. Bây giờ là một hố rộng chừng 34 thước vuông, và người ta tới đó lấy
gạch. Khi còn đứng vững, thì tháp gồm có nhiều từng chồng chất lên nhau, từng
trên lại nhỏ hơn từng dưới, và trên đỉnh tháp là miễu thờ Marduk.
"Dòng dõi của Sem" (11:10-26)
Ðây là tài liệu thứ sáu trong các tài liệu. Ở đoạn
10:21-31, dòng dõi của Sem được ghi tên một cách tổng quát hơn. Tại đây, dòng
dõi được đưa thẳng từ Sem tới Áp-ra-ham, gồm 10 thế hệ tất cả, trong khoảng 427
năm. Có là chính Sem đã chép cả gia phổ nầy, vì ông sống suốt thời gian gồm
trong đó. Dưới đây là một đồ biểu chỉ tỏ các đời từ A-đam đến nước lụt, theo
như đã chép ở đoạn 5, và từ nước lụt đến Áp-ra-ham, theo như có chép ở đây
(đoạn 11).
Tuổi lúc sanh con trai |
Hưởng
thọ |
Tuổi lúc sanh con trai |
Hưởng
thọ |
||
A-đam |
130 |
930 |
A-bác-sát,
sanh sau nạn nước lụt |
2 |
|
Sết |
105 |
912 |
A-bác-sát |
35 |
438 |
Ê-nót |
90 |
905 |
Sê-lách |
30 |
433 |
Kê-nan |
70 |
910 |
Hê-be |
34 |
464 |
Ma-ha-la-le |
65 |
895 |
Bê-léc |
30 |
239 |
Giê-rệt |
162 |
962 |
Rê-hu |
32 |
239 |
Hê-nóc |
65 |
865 |
Sê-rúc |
30 |
230 |
Mê-tu-sê-la |
187 |
969 |
Na-cô |
29 |
148 |
Lê-méc |
182 |
777 |
Tha-rê |
130 |
205 |
Nô-ê lúc nạn nước lụt xảy ra |
600 |
950 |
Áp-ra-ham,
vào xứ Ca-na-an |
75 |
|
Cộng: |
1656 |
|
Cộng: |
427 |
|
Theo các con số trên đây, thì:
Từ A-đam đến nạn nước lụt có 1656 năm; từ nạn nước
lụt đến Áp-ra-ham có 427 năm.
A-đam sống đồng thời với Mê-tu-sê-la 243 năm.
Mê-tu-sê-la sống đồng thời với Nô-ê 600 năm, và với
Sem 98 năm.
Chỉ có 126 năm giữa lúc A-đam qua đời và lúc Nô-ê
sanh ra.
Nô-ê còn sống 350 tuổi sau nạn nước lụt; ông qua
đời 2 năm trước khi Áp-ra-ham sanh ra.
Sem sống từ 98 năm trước nạn nước lụt tới 502 năm
sau nạn nước lụt.
Sem sống cho tới 75 năm sau khi Áp-ra-ham vào xứ
Ca-na-an.
A-đam còn sống lúc cháu bảy đời của ông sanh ra.
Nô-ê sống tới đời thứ chín của dòng dõi mình.
Ở cột bên mặt, trừ ra Bê-léc và Na-cô, hết thảy còn
sống lúc Áp-ra-ham sanh ra.
Trong thời trường thọ dường ấy, dân số tăng lên rất
mau chóng.
Trước nạn nước lụt, người ta sống rất lâu. Từ đó
trở đi, tuổi thọ lần lần giảm bớt.
"Dòng dõi của Tha-rê" (11:27 tới 25:11)
Ðây là tài liệu thứ bảy trong số tài liệu hợp thành
sách Sáng thế ký. Có lẽ truyện tích Áp-ra-ham đã do chính Áp-ra-ham và Y-sác
chép.
* * *
Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham2
Thời kỳ nầy trong lịch sử xứ Ba-by-lôn
Sau khi ghi tên 10 vua trị vì trước nạn nước lụt,
các bi văn của xứ Ba-by-lôn thời cổ còn thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt hủy
phá mặt đất."
Rồi có ghi tên 100 vua của 20 đô thị, hoặc triều
đại khác nhau, trị vì suốt thời kỳ giữa nạn nước lụt và Hammurabi, là kẻ đồng thời với Áp-ra-ham.
Về phần đầu của thời kỳ nầy, trên các tấm bản thình
lình rút ngắn thời hạn của các đời trị vì, rút từ các con số lớn lao quá xuống
các con số vừa phải. Như vậy là đánh dấu con đường phân chia giữa "lịch
sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố đương thời nay) và "tiền
sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố thời xưa, căn cứ vào khẩu
truyền, hoặc dịch từ chữ tượng hình thượng cổ ra chữ tiết hình; và khi ấy người
ta không đoán được chữ tượng hình, hay là đã đọc sai).
Những nước gồm một đô thị
Lúc mở đầu lịch sử, có những khu định cư tại Kish, Lagash, Ê-rết, U-rơ, Eridu,
Nippur, A-cát, Ba-by-lôn, Larsa, Fara, và nhiều chỗ khác. Có những đô thị nhỏ chung quanh có vách
lũy, mỗi đô thị ở dưới quyền cai trị của một vua, hoặc một người vừa làm vua,
vừa làm thầy tế lễ. Các vua nầy xung đột với nhau luôn. Thường khi một đô thị
kiểm soát được nhiều đô thị khác, và như vậy, tạo thành một tiểu đế quốc. Nền
thống trị nầy kéo dài một thời gian, rồi tan rã, hoặc chuyển qua một hoặc nhiều
đô thị khác. Các vua nầy ghi chép các chiến công của mình trên những tấm bảng
đất sét, và mấy năm gần đây, người ta đã đào bới được cả ngàn tấm bảng như vậy.
Tuy nhiên, các tấm bảng không chỉ tỏ các đô thị triều đại nầy đồng thời với
nhau, hoặc kế tiếp nhau tới mực nào. Vậy, niên biểu của thời kỳ nầy rất không
xác thực.
Sau đây có kê khai những triều đại chánh yếu đã cai
trị xứ Ba-by-lôn giữa nạn nước lụt và thời Áp-ra-ham, y theo các tấm bảng ấy.
Hãy chú ý: Những trung tâm cư dân nầy vẫn còn tập hợp chung quanh Eridu, là
vườn Ê-đen theo truyền thoại, và chung quanh Fara, là nơi cư trú của Nô-ê theo truyền thoại.
Bản đồ số 25
Triều đại Kish
Các tấm bảng gọi triều đại nầy là triều đại thứ
nhứt sau nạn nước lụt. Kish là một
vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, gần vị trí của tháp Ba-bên. Ba-by-lôn là đô thị tối
cổ, rộng lớn, có từ trước nạn nước lụt, và là thủ đô chính của xứ Ba-by-lôn
trong thời kỳ theo sau nạn nước lụt. Chính tại đây mà Tấn sĩ Langdon đã tìm được di tích của lớp do
nước lụt làm lắng xuống.
Triều đại Lagash
Lagash là thủ đô nước thứ nhứt của người Sumériens, hoặc dòng dõi Cham, sau nạn
nước lụt, ở nam bộ xứ Ba-by-lôn, cũng như Kish là thủ đô của nước Sémitique (dòng dõi của Sem) thứ nhứt ở
bắc bộ xứ Ba-by-lôn; hai thủ đô nầy cách nhau chừng 100 dặm. Eannatum, một vua
của Lagash, đã trị phục được toàn xứ
Ba-by-lôn, và chánh quyền của ông lan rộng tới người Ê-lam ở vùng cao nguyên
phía Ðông. Lagash là một trung tâm
thơ viện, do Sarzec đào bới năm
1877-1901.
Triều đại Ê-rết
Ê-rết cũng gọi là Uruk, hoặc Warka, một
trong những đô thị do Nim-rốt xây cất, chỉ cách vườn Ê-đen theo truyền thoại có
50 dặm. Một vua của Ê-rết tên là Gilgamesh.
Một vua khác tên là Lugalziggissi, là
vua đầu tiên tiến tới Ðịa Trung Hải từ nhiều thế hệ trước khi Áp-ra-ham ra đi
theo tiếng Ðức Chúa Trời kêu gọi. Vua nầy tự xưng là "chúa của thế
giới." Ê-rết do Roldewey đào bới năm 1913, lại do Noldeke và Jordan đào bới
năm 1928-33. Họ nhận thấy Ê-rết là một trong những đô thị cổ nhứt, có 18 lớp
tiền sử đặc biệt. Ê-rết là trung tâm thờ lạy thần Ishtar, và trong cuộc thờ lạy nầy, người ta bắt buộc phải phạm tội
gian dâm.
Triều đại A-cát
A-cát, cũng gọi là Sippar, là một đô thị khác do Nim-rốt xây cất, và cũng là một trung
tâm thơ viện. A-cát cách Fara, nơi cư
trú của Nô-ê theo truyền thoại, chừng 100 dặm về phía tây bắc. Tại đây đã phát
xuất SARGON đệ nhứt, là một
chiến sĩ lừng danh trước thời Áp-ra-ham; ông cai trị từ xứ Ê-lam đến núi
Si-na-i, và tự xưng là "vua của bốn phương thế giới." Ông là một nhà
đại chinh phục, đại kiến thiết, và đã phát triển văn học. Ông sáng lập một thơ
viện đồ sộ. Người ta tưởng rằng ông gần đồng thời với Chéops, là người
xây cất Kim tự tháp Lớn ở Ai-cập.
Các triều đại U-rơ
U-rơ chỉ cách Eridu,
vườn Ê-đen theo truyền thoại, có 12 dặm. Sau nạn nước lụt, thành U-rơ đã bị các
đô thị tiếp cận cướp phá ít lâu. Nhưng đương thời Áp-ra-ham, U-rơ đã trở thành
đô thị quan trọng bậc nhứt thế giới. Dưới đời trị vì của hai vua danh tiếng hơn
hết, là Ur-engur và Dungi, U-rơ đã thống trị từ vịnh Ba-tư
tới Ðịa Trung Hải.
Triều đại Ba-by-lôn
Vào khoảng Áp-ra-ham di cư qua xứ Ca-na-an (2000
năm T.C), thành Ba-by-lôn, dưới sự trì vì của Hammurabi, đã chiếm được ngôi bá chủ. Hammurabi, một chiến sĩ lừng danh, đã xây nhiều miễu thờ, đào nhiều
con kinh, và soạn thảo một bộ luật. Người ta thường cho ông là một với
Am-ra-phên ở Sáng thế ký 14:1.
* * *
Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham3
Thời kỳ nầy trong lịch sử Ba-by-lôn2
Những cuộc đào bới tại U-rơ, quê hương
của Áp-ra-ham
U-rơ, cũng gọi là Mugheir và Mugayyar, xưa
kia là một hải cảng trên vịnh Ba-tư, ở cửa sông Ơ-phơ-rát, cách xa Eridu, vị trí của vườn Ê-đen theo truyền
thoại, 12 dặm. Ðây là một đô thị trước nạn nước lụt, bị nước lụt phá hủy, rồi
được xây cất lại. Ngay trước thời Áp-ra-ham, U-rơ là đô thị tráng lệ nhứt thế
giới, là một trung tâm chế tạo, nông nghiệp và hàng hải trong một xứ phì nhiêu
và giàu có lạ lùng. Những thương đội đi ra bốn phương, tới các xứ xa xôi, những
chiếc tàu đi từ các bến của U-rơ dọc theo vịnh Ba-tư, chở rất nhiều đồng và đá
cứng. Ðoạn, vào khoảng thời Áp-ra-ham, U-rơ bị thành Ba-by-lôn làm cho lu mờ,
nhưng vẫn còn là một đô thị quan trọng cho tới thời đế quốc Ba-tư. Vào khoảng
nầy, vịnh Ba-tư đã lùi ra phía biển, và sông Ơ-phơ-rát đổi đường, chảy 10 dặm
về phía đông; còn thành U-rơ bị bỏ hoang vu và bị chôn vùi bởi những trận bão
cát của sa mạc.
Các di tích của U-rơ.--
Có một số đô thị chồng chất lên nhau, và đô thị của Áp-ra-ham ở gần dưới cùng.
Những đô thị nầy gồm một gò nỗng cao, chung quanh có những gò nỗng phụ thuộc
thấp hơn, chiếm một khoảng dài chừng 2 dặm từ Tây-bắc tới Ðông-nam, và rộng
chừng nửa dặm. Trên khoảng dài 2 dặm rưỡi, người ta đã dò thấy di tích của bức
vách bao quanh thành, dày chừng 23 thước tây và cao chừng 26 thước tây. Khu
thánh địa, gồm những miễu thờ và cung điện, có bức vách bên trong bao quanh,
dài chừng 130 thước tây, và rộng chừng 65 thước tây.
Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện đã cử một phái đoàn hỗn hợp
dưới quyền điều khiển của C.L.Woolley, đi làm việc suốt 12 mùa (1922-1934),
mỗi mùa gồm 4 hoặc 5 tháng tiết đông. Với 200 công nhân làm việc mỗi mùa, phái
đoàn đã hoàn toàn khám phá các bí mật của những di tích nầy.
Ziggurat,
hoặc Miễu Tháp, làm theo kiểu mẫu tháp Ba-bên, hiện nay là gò nỗng cao nhứt; và
đương thời Áp-ra-ham, nó là công trình kiến trúc dễ nhận thấy nhứt trong đô
thị. Nó đã được Nabonidus xây cất lại
vào thế kỷ thứ 6 T.C., trên đi tích của miễu thờ đương thời Áp-ra-ham; còn
chính miễu thờ nầy cũng đã được xây cất lại trên nền (nay vẫn còn) của một miễu
thờ khác xây từ thời tiền sử.
Theo như Áp-ra-ham được thấy, tháp nầy hình vuông,
có hiên, và xây bằng gạch vững chắc; các hiên kế tiếp nhau có trồng cây lớn và
cây nhỏ; trên đỉnh tháp có miễu thờ thần Mặt Trăng.
Các miễu thờ: Hai miễu thờ lớn nhứt là miễu thờ Nannar; nam thần Mặt Trăng và miễu thờ Ningal, nữ thần Mặt Trăng; hai nữ thần
nầy nổi tiếng đương thời Áp-ra- ham; có rất nhiều bàn thờ, phòng nhỏ, nơi ở của
các nam tế sư, nữ tế sư và tôi tớ. Ðó là các thần mà thân phụ Áp-ra-ham đã thờ
lạy.
Các lăng tẩm: Lạ lùng hơn hết là đã khám phá được những bửu vật
vô giá trong lăng tẩm của hoàng hậu Shubad
Mes-kalam-dug và một vua vô danh, ở từng dưới của một nghĩa địa, thuộc về
khoảng giữa thời Áp-ra-ham và nạn nước lụt. Cùng với hài cốt hoàng hậu nầy, còn
tìm thấy một vương miện bằng vàng, một khăn trùm đầu, rất nhiều ngọc, vòng đeo
cổ và đồ nữ trang bằng vàng, bạc, bửu thạch, tách, dĩa, hộp đựng đồ trang điểm,
chén đựng thuốc vẽ mặt, và một đờn thụ cầm bằng vàng. Cũng có hài cốt của 40
cung nữ đã bị chôn chung với hoàng hậu, cùng vô số dụng cụ bằng đồng, thau, đá
và đá lửa, để hầu hạ hoàng hậu trong đời sau; có di tích của một chiếc xe ngựa
cùng với hài cốt những con vật đã kéo nó. Ngày nay ta có thể xem thấy mọi vật
nầy tại Bảo tàng viện Ðại học đường Philadelphia.
Nó chứng minh một mức kỹ xảo rất cao trong thời thượng cổ đó, và tỏ ra lúc ấy
họ đã dâng mạng người làm tế lễ và tin có đời sau.
Một khu nhà ở đương thời Áp-ra-ham cũng đã tìm thấy: nào nhà ở,
tiệm buôn, trường học, miễu thờ, và cả ngàn tấm bảng, giấy tờ buôn bán, giao
kèo, biên lai, bài hát, lễ thức, vân vân. Ngày nay ta có thể thấy chính các
đường phố mà Áp-ra-ham đã đi. Nhà xây bằng gạch, có hai từng, ngang với mặt
đường, và bên trong có sân.
* * *
Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham4
Thời kỳ nầy trong lịch sử Ai-cập
Dầu truyện tích Kinh Thánh bắt đầu tại xứ
Ba-by-lôn, nhưng chẳng bao lâu nó đã chuyển qua Ai-cập; và từ đó về sau, Ai-cập
hiện ra trong Cựu Ước.
Sau nạn nước lụt ít lâu, nước Ai-cập được sáng lập
bởi Mích-ra-im, con trai của Cham. Nó được gọi là "xứ của Cham."
Dầu nền văn minh được mở mang
tại xứ Ba-by-lôn, dưới đời trị vì của Nim-rốt, Sargon và Hammurabi,
nhưng nó đã tấn triển mau lẹ hơn tại Ai-cập, dưới 12 triều đại đầu tiên, bao
gồm thời kỳ giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham.
31 triều đại của Manetho. -- Manetho,
người Ai-cập, khoảng 250 năm T.C., đã chép lịch sử Ai-cập, sắp đặt thành 31
triều đại, từ Menes, vua đầu tiên
trong lịch sử, đến khi A-lịch-sơn đại đế, vua Hy-lạp chinh phục Ai-cập, năm 332
T.C.. Cho tới ngày nay, người ta vẫn thừa nhận lịch sử Ai-cập thời xưa gồm 31
triều đại; về đại cương, các sự khám phá của khảo cổ học đã xác chứng thật có
31 triều đại ấy.
|
|
Ðồng thời với |
Triều đại thứ
1 |
Menes |
Nim-rốt
(?) |
Triều đại thứ
2 |
|
|
Triều đại thứ
3 |
|
|
Triều đại thứ
4 |
Kim tự
tháp |
Sargon (?) |
Triều
đại thứ 5 |
|
|
Triều
đại thứ 6 |
|
|
Triều
đại thứ 7 |
|
|
Triều
đại thứ 8 |
|
|
Triều
đại thứ 9 |
|
|
Triều
đại thứ 10 |
|
|
Triều
đại thứ 11 |
|
|
Triều
đại thứ 12 |
2000
T.C. |
Áp-ra-ham |
Triều
đại thứ 13 |
|
|
Triều
đại thứ 14 |
|
|
Triều
đại thứ 15 |
|
|
Triều
đại thứ 16 |
1800
T.C. |
Giô-sép
(?) |
Triều
đại thứ 17 |
|
|
Triều
đại thứ 18 |
1580-1340 |
Môi-se |
Triều đại thứ
19 |
1340-1200 |
|
Triều đại thứ
20 |
1200-1100 |
|
Triều đại thứ
21 |
1100-950 |
Ða-vít |
Triều đại thứ
22 |
950-750 |
|
Triều đại thứ
23 |
750-720 |
|
Triều đại thứ
24 |
720-712 |
|
Triều đại thứ
25 |
712-663 |
|
Triều đại thứ
26 |
663-525 |
|
Triều đại thứ
27-31 |
525-332 |
Ba-tư |
Thời kỳ ở dưới quyền đế quốc Hy-lạp |
322-30 T.C. |
Bản Septante |
Thời kỳ ở dưới quyền đế quốc La-mã |
30 T.C.-300 S.C. |
Ðấng
Christ |
Thoạt tiên, Ai-cập gồm một số nhóm gia tộc, hoặc bộ
lạc nhỏ, mỗi nhóm gọi là một "nước." Họ có thời kỳ "tiền
sử," nghĩa là một thời kỳ trước khi ghi chép những biến cố thời nay, duy
có những thần, á thần và vua sống lâu trong thời nguyên thủy. Họ biết dùng
vàng, bạc, đồng, chì và đá lửa. Họ có chữ viết và biết đóng tàu.
Ba thời kỳ trọng đại của lịch sử Ai-cập
là:
Nước thời cổ: Triều đại thứ 3 tới triều đại thứ 6. Kỷ nguyên xây
cất Kim tự tháp. Theo nhiều ý kiến khác nhau, các triều đại nầy ở vào những
khoảng giữa 4000 năm T.C. tới 2000 năm T.C.; nhưng thường thì cho là vào khoảng
2700 năm T.C..
Nước khoảng giữa: Triều đại thứ 11 và 12. Kỷ nguyên đào kinh. Ðây là
một thời kỳ rất thạnh vượng. Khoảng 2000 năm T.C. Thời Áp-ra-ham.
Thời kỳ đế quốc: Triều đại 18 và 19. 1600-1200 T.C. Ðế quốc thứ
nhứt cầm quyền cả thế giới mà người ta biết hồi đó. Cai trị từ xứ Ê-thi-ô-bi
đến sông Ơ-phơ-rát. Ðây là thời kỳ dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập.
Niên biểu Ai-cập đã được thành lập khá đúng từ năm
1600 T.C.; nhưng trước đó, thì rất mơ hồ. Vậy, các nhà Ai-cập-học chỉ định khác
nhau về niên hiệu của Menes, vua thứ
nhứt của thời kỳ lịch sử, như sau nầy: Petrie,
5500 T.C.; Mariette, 5000; Brugsch, 4500; Chabas, 4000; Lepsius,
3900; Bunsen 3600; Hall, 3500; Breasted 3400; Barton
3400; Meyer 3300; Scharff, 3000; Poole 2700; G. Rawlinson 2450; Wilkinson 2320; Sharpe
2000. Như vậy, ta có thể thấy rằng Petrie
và Breasted, là hai nhà Ai-cập-học
trứ danh nhứt, sai biệt nhau tới hơn 2000 năm đối với khởi điểm của lịch sử
Ai-cập. Hai ông nầy cũng sai biệt nhau cả ngàn năm về niên hiệu của các Kim tự
tháp, và 700 năm về thời kỳ các Hyksos
(dòng vua trị vì đương thời dân Do-thái kiều ngụ tại Ai-cập). Ngày nay người ta
có khuynh hướng hạ thấp các niên hiệu trong niên biểu Ai-cập và Ba-by-lôn, cho
rằng Kim tự tháp Lớn được xây cất khoảng 2400 hoặc 2500 năm T.C.
Niên biểu của Kinh Thánh
và niên biểu của Ai-cập. -- Người
Ai-cập có truyền thuyết rằng nạn nước lụt xảy ra trong thời tiền sử. Nền văn
minh Kim tự tháp phát triển sau nạn nước lụt. Phải có đủ thì giờ cho gia quyến
Nô-ê sanh con đẻ cháu rất đông đúc. Kinh Thánh dường như đặt nạn nước lụt vào
khoảng 2400 T.C.; còn các nhà Ai-cập-học tính đổ đồng rằng thời kỳ lịch sử
Ai-cập bắt đầu khoảng 3000 năm T.C. (xem ở trên); như vậy là đặt ở 600 năm trước
nạn nước lụt những biến cố đáng phải xảy ra lâu lắm sau nạn nước lụt. Ðó dường
như là một mâu thuẩn giữa niên biểu Ai-cập và niên biểu Kinh Thánh. Nhưng dựa
vào đoạn luận về niên biểu Ai-cập trên đây, ta có thể nhận xét rằng một vài nhà
Ai-cập học đem khởi điểm của thời kỳ lịch sử Ai-cập xuống sau 2400 năm T.C.; và
ta phải nhớ rằng bản Septante và bản
Ngũ kinh Sa-ma-ri đẩy niên hiệu Kinh Thánh cho nạn nước lụt lui về 3000 T.C.
(xem dưới mục "Niên biểu Cựu Ước"). Như vậy, chỉ có vài hệ thống niên
biểu Ai-cập mâu thuẩn với vài hệ thống niên biểu Kinh Thánh; còn những niên
biểu khác thì phù hợp hoàn toàn.
* * *
Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham5
Thời kỳ nầy trong lịch sử Ai-cập2
Thời đại thứ nhứt.-- Menes (Mena), vua lịch sử thứ nhứt, củng cố
nhiều bộ lạc khác nhau, và thống nhứt Thượng-Ai-cập với Hạ-Ai-cập. Ông chiếm cứ
vùng Si-na-i và khai thác các mỏ lam ngọc ở đó. Một vài nhà học giả cho rằng
ông là một với Mích-ra-im, con trai của Cham. Có lẽ ông gần đồng thời với
Nim-rốt; đang khi Nim-rốt đặt nền tảng của đế quốc chủ nghĩa giữa các tiểu bang
của xứ Ba-by-lôn, thì Menes cũng làm
việc ấy tại Ai-cập. Người ta tìm thấy phần mộ ông tại Abydos, và trong đó có một cái bình tráng men xanh lá cây có khắc
tên ông. Triều đại nầy có 9 vua.
Triều đại thứ hai.--
9 vua. Những tên Sémitique chỉ tỏ
cuộc giao dịch với Ba-by-lôn. Khai thác các mỏ ở vùng Si-na-i.
Triều đại thứ ba.--
5 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Ðóng tàu dài chừng 48 thước để buôn bán
tại vùng Ðịa trung hải; tổ chức hàng hải tới xứ Li-ban. Bắt đầu kỷ nguyên Kim
tự tháp. Zozer xây cất "Kim tự
tháp có bậc" tại Sakkarah, cách
thành Mem-phi (xem Ô-sê 9:6) 2 dặm về phía Tây, có 6 từng có sân thụt vô trong,
gần giống như các miễu tháp của xứ Ba-by-lôn vậy. Sau đó, Snefru (Seneferu) bắt
chước Zozer, nhưng lấp kín các từng
có sân thụt vô, làm thành các sườn phẳng phiu. Ðó thật là Kim tự tháp đầu tiên,
tại Meydum, gần Sakkarah.
Triều đại thứ tư.--
7 vua. Tuyệt điểm của kỷ nguyên Kim tự tháp. Xây cất 3 Kim tự tháp của Chéops (Khufu), Khafre (Cephren), Menkure (Menkaura) tại Gizeh, cách kinh thành Le Caire
8 dặm về phía Tây. Lớn nhứt là Kim tự tháp của Chéops, một trong những vua hùng mạnh nhứt của Ai-cập. Rồi tới Kim
tự tháp của Khafre, có khắc tượng
nhân sư (sphinx) mà mặt là chính mặt
ông. Còn trong Kim tự tháp của Menkure
thì người ta tìm thấy chính xác ướp của ông.
Triều đại thứ năm.--
9 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Cử các phái đoàn thương mại vượt Ðịa
trung hải, tới các xứ Phê-ni-xi, Sy-ri và Ô-phia (ICác Vua 9:28).
Người Ai-cập rất mạnh tin có đời sau. Ở vườn phía
Tây Kim tự tháp của hoàng hậu Khent-Kawes, thuộc triều đại thứ 5, người ta
đã thấy một chiếc tàu dài chừng 36 thước, ngang chừng 5 thước, mà bà đã cho
khắc sâu vào đá để chở linh hồn bà qua thế giới bên kia. Lăng tẩm của các
Pha-ra-ôn (vua Ai-cập) chứa nhiều vật báu của thế giới nầy mà họ tưởng có thể
đem theo qua thế giới bên kia.
Triều đại thứ sáu.--
6 vua. Nước thời cổ chấm dứt. Pepi đệ
nhị, vua thứ năm, trị vì 90 năm; đó là đời trị vì lâu dài nhứt trong lịch sử.
Các triều đại thứ bảy, tám,
chín, mười.-- 20 vua. Thời kỳ phân tán; nhiều nước giao tranh
với nhau.
Triều đại thứ mười một.--
7 vua. Khởi đầu nước hùng mạnh ở khoảng giữa; nước nầy tồn tại suốt triều đại
thứ 12.
Triều đại thứ mười hai.--
8 vua. Amenembet đệ tam xây cất miễu
thờ Serabit tại vùng Si-na-i; tại
đây, Petrie mới tìm thấy lối viết có
chữ cái cổ nhứt thế giới. Có nhiều cuộc giao dịch với xứ Sy-ri. Ðào một con
kinh từ sông Ni-lơ tới Hồng hải. Senusert
đệ nhứt xây tháp hình chóp (obélisque)
tại thành Ôn (Sáng thế ký 41:45), đến nay vẫn còn. Người ta thường nghĩ rằng Senusert đệ nhị chính là Pha-ra-ôn khi
Áp-ra-ham ghé thăm Ai-cập.
Các kim tự tháp Ai-cập không giống những miễu tháp Ba-by-lôn, vì trên
chót những miễu tháp nầy có xây nơi thờ lạy các thần; còn Kim tự tháp chỉ là mộ
phần cốt để vĩnh cửu hóa vinh quang của các Pha-ra-ôn đã xây cất nó. Sự ham mê
Kim tự tháp bắt đầu từ triều đại thứ nhứt, và tới triều đại thứ tư thì lên đến
cực độ.
Kim tự tháp lớn của Chéops.-- Ðây là công trình kiến trúc vĩ đại nhứt của các
thời đại. Chiếm một khoảng hơn 5 mẫu tây và cao chừng 155 thước tây (nay còn
chừng 145 thước). Tính phỏng để xây cất nó, phải dùng 2.300.000 phiến đá, mỗi
phiến dày đổ đồng gần 1 thước tây và cân nặng đổ đồng 2 tấn rưỡi. Xây bằng
nhiều lớp phiến đá vôi đẽo sơ sài, ngoài cùng là lớp phiến đá hoa cương chạm
trổ tuyệt xảo và ráp nhau rất khít. Những phiến đá của lớp ngoài cùng nầy đã bị
bóc và đem dùng xây cất kinh thành Le
Caire. Giữa sườn phía Bắc có một lối đi rộng gần 1 thước tây, cao chừng 1
thước 25, dẫn vào một phòng đục trong đá nguyên khối, ở dưới mặt đất chừng 33
thước tây và cách đỉnh Kim tự tháp gần 200 thước tây. Giữa phòng nầy và đỉnh
Kim tự tháp lại có hai phòng khác, có nhiều tranh vẽ và tượng chạm mô tả chiến
công của vua nầy. Xác ướp của Chéops
không có ở đó.
Xây cất thể nào?-- Người ta dùng dụng cụ bằng đá và bằng đồng mà lấy
đá từ một hầm đá cách xa 12 dặm về phía Ðông, thả trôi qua sông Ni-lơ trong mùa
lụt, rồi có những đoàn người vô tận dùng dây kéo trên con đường rất dài thoai
thoải mà họ đã đắp cho công cuộc xây cất nầy. Họ dùng những cái nêm có đáy như
cái nôi mà kéo đá lên và đưa tới đúng chỗ; những cái nêm nầy liên tiếp đưa qua
một phía gióng, rồi lại qua phía kia. Tính ra phải có 10 vạn người làm việc
luôn 10 năm để đắp xong đường đất trên đây, rồi phải mất 20 năm nữa mới xây
xong chính Kim tự tháp. Hết thảy là lao công cưỡng bách, giai cấp thợ thuyền và
tôi mọi bị kéo đi làm việc, dưới cái roi da tàn nhẫn, không chút thương xót của
bọn đốc công.
Tánh cách quan trọng.--
Ðiểm kỳ lạ của các Kim tự tháp là nó được xây cất ngay lúc khởi đầu lịch sử.
Huân tước Flinders Petrie gọi Kim tự
tháp của Chéops là "công trình
kiến trúc lớn lao nhứt và tính đúng nhứt mà thế giới từng mục kích." Bách
khoa Từ điển Brilannica luận rằng:
"Sức óc mà Kim tự tháp chứng minh thật lớn bằng sức óc của bất cứ người
nào ngày nay."
Ðoạn 12 -- Sự kêu gọi Áp-ra-ham
Ðây bắt đầu truyện tích Sự Cứu Chuộc. Trong vườn
Ê-đen, đã ngụ ý đến chuyện tích nầy. 2000 năm sau khi loài người được dựng nên
và sa ngã, 400 năm sau nạn nước lụt, bây giờ, giữa một thế giới sa xuống vòng
thờ lạy hình tượng và gian ác, Ðức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham để ông trở nên
nhà sáng lập một phong trào có mục đích Ðòi Lại và CỨứu Chuộc
loài người.
Trong thời đại tiền phong của địa cầu nầy, đang khi
các dân tộc vẫn chưa vượt qua mức tổ chức bộ lạc và đang tìm kiếm cùng định cư
trên những đất đai tốt hơn, thì Áp-ra-ham, một người công bình, tin thờ Ðức
Chúa Trời, chớ chẳng thờ lạy hình tượng, một trong số ít người còn cố giữ cổ
phong của độc thần chủ nghĩa từ lúc thái sơ, đã được Ðức Chúa Trời hứa với dòng
dõi mình rằng:
1. Chúng sẽ thừa hưởng xứ Ca-na-an.
2. Chúng sẽ trở nên một dân tộc hùng mạnh.
3. Và nhờ chúng, mọi nước sẽ được phước.
Lời hứa nầy (12:2, 3; 22:18) là ý tưởng căn bản mà
cả Kinh Thánh là một bài giảng luận rộng ra. Trước hết, Ðức Chúa Trời kêu gọi
Áp-ra-ham tại U-rơ (Công-vụ các Sứ- đồ 7:2-4; Sáng thế ký 11:31). Ngài lại kêu
gọi ông nữa tại Cha-ran (Sáng thế ký 12:1-4), tại Si-chem (Sáng thế ký 12:7),
tại Bê-tên (Sáng thế ký 13:14-17), và hai lần tại Hếp-rôn (Sáng thế ký 15:5,
18; 17:1-8). Lời hứa được lặp lại cho Y-sác (Sáng thế ký 26:3, 4) và Gia-cốp
(Sáng thế ký 28:13, 14; 35:11, 12; 46:3, 4).
Áp-ra-ham
Căn cứ vào Sáng thế ký 11:26, 32; 12:4 và Công vụ
các sứ đồ 7:2, 4, thì dường như Áp-ra-ham sanh ra lúc thân phụ của ông đã 130
tuổi, và ông chẳng phải là con đầu lòng theo như Sáng thế ký 11:26 đã ngụ ý.
Áp-ra-ham được 75 tuổi khi vào xứ Ca- na-an; chừng 80 tuổi thì ông giải cứu Lót
và gặp Mên-chi-xê-đéc; 86 tuổi khi Ích-ma-ên sanh ra; 99 tuổi khi Sô-đôm bị hủy
diệt; 100 tuổi khi Y-sác ra đời; 137 tuổi khi Sa-ra qua đời; 160 tuổi khi
Gia-cốp sanh ra. Ông qua đời năm 175 tuổi, tức là 115 năm trước khi Gia-cốp di
cư xuống Ai-cập.
Phát triển sự thờ lạy hình tượng
Áp-ra-ham chẳng phải người thờ lạy hình tượng,
nhưng ông sống trong một thế giới thờ lạy hình tượng. Lúc ban đầu, loài người
chỉ có một Ðức Chúa Trời; và trong vườn Ê-đen, họ được thông công khá thân mật
với Ngài. Nhưng khi họ phạm tội và bị xua đuổi, thì mất sự hiểu biết nguyên
thủy về Ðức Chúa Trời; đang khi rờ rẫm trong bóng tối để tìm phương giải quyết
những bí mật của đời sống, họ bèn quay ra thờ lạy các sức mạnh thiên nhiên mà
họ cho là nguồn sự sống. Vì tánh giao là phương pháp do đó có sự sống, nên nó
đóng một vai rất quan trọng trong tôn giáo thượng cổ xứ Ba-by-lôn. Các bi văn
chữ tiết hình bày tỏ rằng một phần lớn lễ thức mô tả tánh giao giữa các nam
thần và nữ thần do đó (theo như họ nghĩ) mà có muôn vật. Rồi mặt trời, mưa và
nhiều sức mạnh thiên nhiên khác cũng được thần thánh hóa, vì sự sống của thế
giới tùy thuộc vào chúng. Các vua vì có quyền hành nên cũng được tôn làm thần.
Nhiều đô thị và nhiều nước tôn kẻ sáng lập làm thượng đẳng thần: tỉ như Asshur, tổ phụ người A-si-ri , đã trở
nên thượng đẳng thần của họ; và Marduk
(Nim-rốt), người sáng lập Ba-by-lôn, đã trở nên thượng đẳng thần của thành ấy.
Ðể cho các thần được thực hữu hơn, họ đã làm tượng để hình dung chúng; rồi
chính tượng lại được thờ lạy như là thần. Vậy, loài người đã từ chủ nghĩa độc
thần nguyên thủy đâm nhào xuống vực sâu của chủ nghĩa đa thần với vô số hình
tượng; một vài sự thờ lạy nầy, trong lúc thực hành, thật là hư hoại và ghê gớm
khôn tả xiết.
Sự thờ lạy hình tượng đương thời
Áp-ra-ham
Thành U-rơ thuộc xứ Ba-by-lôn, và người Ba-by-lôn
có nhiều nam thần, nữ thần. Họ thờ lửa, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, và
nhiều sức mạnh thiên nhiên khác nữa. Nim-rốt, người tự tôn lên nghịch cùng Ðức
Chúa Trời bằng cách xây tháp Ba-bên, từ đó về sau đã được nhìn nhận là thượng
đẳng thần của xứ Ba-by-lôn. Người ta thường gọi tên ông là Marduk; về sau, họ cho ông là một với Bel. Shamash, là tên của thần Mặt Trời. Sin, nam thần Mặt Trăng, là
thượng đẳng thần của thành U-rơ, quê hương Áp-ra-ham. Vợ của Sin tên là Ningal, nữ thần Mặt Trăng của thành
U-rơ. Nó có nhiều tên và được thờ lạy khắp các đô thị như là Mẫu Thần. Nó cũng
có tên là Nina, do đó mà đặt tên thành Ni-ni-ve. Trong xứ Ba-by-lôn người ta
thường gọi nó là Ishtar. Nó là tình
dục được thần thánh hóa, và sự thờ lạy nó đòi hỏi phải phóng túng theo tình
dục. Sự gian dâm "thánh" tại miễu thờ nó là một phong tục phổ thông
giữa vòng phụ nữ xứ Ba-by-lôn. Trong các miễu thờ nó có những phòng trang biện
lịch sự, tại đó nữ tế sư tiếp đờn ông tới thờ lạy bằng nhiều nghi lễ nhơ nhuốc.
Ngoài người nữ tế sư mãi dâm đó, mỗi thiếu nữ, thiếu phụ, hoặc quả phụ đều phải
hành dâm trong các nghi lễ ấy rất ít là một lần trong đời mình.
Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời độc nhứt vô
nhị
Ðồng bào của Áp-ra-ham là kẻ thờ lạy hình tượng.
Thân phụ ông cũng thờ lạy hình tượng (Giô-suê 24:2). Có truyện truyền khẩu rằng
lúc còn thơ ấu, ông đã bị bắt bớ vì không chịu thờ lạy hình tượng. Áp-ra-ham
làm thể nào mà biết được Ðức Chúa Trời? Chắc là nhờ Ðức Chúa Trời trực tiếp
khải thị. Hơn nữa, căn cứ vào những con số ở đoạn 5 và đoạn 11, ta thấy Nô-ê
còn sống lúc Áp-ra-ham sanh ra, Mê-tu-sê-la sống đồng thời với Nô-ê 600 năm, và
A-đam sống đồng thời với Mê-tu-sê-la 243 năm. Vậy, Áp-ra-ham có thể được Sem
trực tiếp dạy cho biết truyện tích nước lụt do Nô-ê kể, và truyện tích A-đam
cùng vườn Ê-đen do Mê-tu-sê-la kể.
Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an (Sáng thế ký 12:4-9)
Nơi Áp-ra-ham dừng lại đầu tiên là Cha-ran, cách
U-rơ chừng 600 dặm về phía Tây bắc, và cách xứ Ca-na-an 400 dặm về phía Ðông
bắc. Ông đã từ U-rơ ra đi, tìm một xứ tại đó có thể gây dựng một dân tộc thoát
khỏi sự thờ lạy hình tượng, mặc dầu ông chẳng biết mình đi đâu (Hê-bơ-rơ 11:8).
Nhưng thời ấy Cha-ran đã là một miền rất đông dân, có đường đi Ba-by-lôn,
A-si-ri, Sy-ri, Tiểu Á tế á và Ai-cập; các thương đội và quân đội luôn luôn
trải qua những con đường nầy. Nhơn dân thờ lạy hình tượng; họ cũng thờ thần Mặt
Trăng của thành U-rơ. Vậy, sau khi cha, là Tha-rê, qua đời, thì Áp-ra-ham, do
sự kêu gọi của Ðức Chúa Trời, lại tiến bước đi tìm một xứ dân thưa thớt hơn.
Si-chem, nơi Áp-ra-ham dừng lại đầu tiên trên đất
Ca-na-an, ở chính giữa xứ, và nằm trong một thung lũng đẹp tuyệt, giữa núi
Ê-banh và núi Ga-ri-xim. Tại đây, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời,
nhưng chẳng bao lâu, ông lại tiến xuống phía Nam để thám hiểm xứ nầy nhiều hơn
nữa.
Rồi ông dựng lại tại Bê-tên, cách Si-chem 20 dặm về
phía Nam, và cách Giê-ru-sa- lem 10 dặm về phía Bắc. Ðây là một trong những chỗ
cao nhứt của xứ Ca-na-an, bốn phía có phong cảnh đẹp đẽ. Có lẽ Áp-ra-ham đi dọc
theo đỉnh dãy núi, vì thung lũng sông Giô-đanh ở phía Ðông và đồng bằng mé biển
ở phía tây đã có khá đông người ở. Tại Bê-tên, ông cũng dựng một bàn thờ, y như
ông đã dựng tại Si-chem và về sau dựng tại Hếp-rôn, chẳng những để nhìn nhận
Ðức Chúa Trời, song cũng để tuyên bố đức tin của mình với dân chúng mà ông đến
ở chung đó. Chắc ông đã ưa thích Bê-tên, vì khi từ Ai-cập trở về, ông định cư
tại đây cho đến khi ông và Lót phân rẽ nhau.
Áp-ra-ham kiều ngụ tại Ai-cập (12:10-20)
Khi từ Bê-tên tiến xuống phía Nam, chắc ông đã đi
gần sát Giê-ru-sa-lem; nếu Mên-chi-xê-đéc là Sem, có lẽ Áp-ra-ham đã ghé thăm
Sem, vì ông chắc phải quen biết Sem tại xứ Ba-by-lôn. Vì cớ nạn đói kém,
Áp-ra-ham cứ đi suốt niềm Nam mà vào Ai-cập, và kiều ngụ tại đó cho đến khi hết
nạn ấy. Thiếu điều ông lâm nạn. Vợ ông là Sa-ra, có nhan sắc, và các vua chúa
hùng mạnh có lệ "tịch thâu" mỹ nhơn cho phần mình và giết chồng họ
đi. Về sau, Áp-ra-ham cũng bị rắc rối như vậy với A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin
(đoạn 20). Ông cẩn thận và mưu mẹo gọi Sa-ra là "em gái" mình, thì
không phải là hoàn toàn nói dối đâu. Sa-ra chính là "em một cha khác
mẹ" của ông (Sáng thế ký 20:12). Thời thượng cổ, người ta thường thành hôn
với bà con gần gũi, cho đến khi thành lập các chi tộc để lựa chọn được dễ dàng
mới thôi.
Bí Chú Khảo Cổ: Áp-ra-ham viếng Ai-cập
Tại Benihassen,
trên lăng tẩm của Senusert đệ nhị, thuộc triều đại thứ 12, mà người ta tưởng là
Pha-ra-ôn đương thời đó, có một bức điêu khắc mô tả nhà buôn Sémitique (Á châu) tới thăm triều đình
vua ấy, dường như là một biến cố quan trọng phần nào. Có lẽ đó là bản ghi lúc
Áp-ra-ham thăm viếng Ai-cập.
Ðoạn 13 -- Áp-ra-ham và Lót phân rẽ nhau
Lót là cháu Áp-ra-ham. Hai
người sống chung với nhau từ khi dời khỏi U-rơ mấy năm trước. Nhưng bây giờ các
bầy súc vật và trại của họ đông đúc quá, lại thêm bọn chăn chiên cho họ hay cãi
nhau về đồng cỏ quá, đến nỗi dường như phân rẽ nhau là điều tốt nhứt. Áp-ra-ham
cao thượng đã cho Lót được lựa chọn trước. Lót ngu dại chọn lấy đồng bằng
Sô-đôm. Bấy giờ Áp-ra-ham lựa chọn Hếp-rôn, là nơi ông định cư từ đó về sau.
Ðoạn 14 -- Áp-ra-ham đánh bại các vua Ba-by-lôn
Ấy cốt để cứu Lót. Áp-ra-ham
chắc phải có thiên tài về quân sự. Với 318 người và sự giúp đỡ của một số người
lân cận liên minh, ông đã tấn công bất ngờ lúc nửa đêm và đánh tan bốn vua
Ba-by-lôn danh tiếng. Thời ấy, các đạo quân không đông đúc. Tổng số dân trên
thế giới còn ít ỏi và tản mác. Vua chỉ là vị tù trưởng một bộ lạc. Áp-ra-ham
cũng như là một vua, có lẽ là tộc trưởng của một ngàn người hoặc hơn.
Bí Chú Khảo Cổ: Hammurabi
Người ta thường cho
"Am-ra-phên" (câu 1) là một với Hammurabi,
là vua Ba-by-lôn danh tiếng nhứt thời thượng cổ; vì đã tìm thấy bộ luật trứ
danh của ông, nên tên tuổi ông được nhắc nơi cửa miệng. Có lẽ Áp-ra-ham quen
thân vua nầy khi ông còn ở U-rơ. "Bộ luật" của Hammurabi là tiếng của thế giới đương thời Áp-ra-ham từ bụi đất
phát ra.
Bí Chú Khảo Cổ: Ðường của các vua (câu 5, 6)
Những chỗ ghi trong câu 5-6,
do đó bốn vua Ðông phương kéo đến đánh thành Sô- đôm, cách xa thương lộ thông
thường nhiều lắm về phía Ðông; vậy nên Albright
nói rằng có lần ông tưởng điều đó chỉ tỏ tánh chất thần thoại của đoạn 14, sách
Sáng thế ký. Nhưng đến năm 1929, ông tìm thấy một hàng gò nỗng lớn tại Hauran và dọc theo biên giới phía Ðông
của xứ Ga-la-át và xứ Mô-áp; hàng gò nỗng nầy là những đô thị phồn thịnh khoảng
2000 năm T.C., tỏ ra đó là một miền đông dân trên thượng lộ trực tiếp giữa
Ða-mách và các miền Ê-đôm, Si-na-i, có vàng, đồng cùng chất mãnh (manganèse).
Mên-chi-xê-đéc (14:18-20)
Ông vừa làm vua, vừa làm thầy
tế lễ tại Sa-lem (Giê-ru-sa-lem). Theo truyền thoại Hê-bơ-rơ, thì ông là Sem,
người sống sót trong nạn nước lụt, lúc nầy vẫn còn sống, là người cao tuổi nhứt
thế giới, và là thầy tế lễ của loài người trong thời kỳ tộc trưởng. Nếu điều
nầy đúng, thì nó ngụ ý rằng ngay sau nạn nước lụt, Ðức Chúa Trời đã sớm chọn
Giê-ru-sa-lem làm sân khấu của sự cứu chuộc loài người. Có kẻ nghĩ rằng
Mên-chi-xê-đéc là một thiên sứ; có kẻ lại nghĩ rằng ông là Ðức Chúa Trời thể
hiện; cũng có kẻ nghĩ rằng ông là Ðấng Mê-si. Dầu là ai đi nữa, ông cũng làm
hình bóng về Ðấng Christ (Thi Thiên 110; Hê-bơ-rơ 5:6, 7).
Ðoạn 15, 16, 17 -- Ðức Chúa Trời nhắc lại các
lời hứa với Áp-ra-ham
Ðức Chúa Trời giải thích rằng
trước khi thừa hưởng xứ Ca-na-an, dòng dõi ông phải ở 400 năm trên một đất
ngoại bang, tức là Ai-cập (15:13). Khi Áp-ra-ham 100 tuổi và Sa-ra 90 tuổi, thì
Ðức Chúa Trời hứa ban Y-sác cho ông bà, và giao ước về lễ cắt bì được thiết
lập, làm dấu hiệu đặc biệt của dân tộc được Ðức Chúa Trời lựa chọn.
Ðoạn 18, 19 -- Sô-đôm và Gô-mô-rơ
Hai "hố phân" gian
ác nầy chỉ cách Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham ở, và Giê-ru-sa-lem, nơi Mên-chi-xê-đéc
ở, có mấy dặm đường; nhưng nó hư hoại đến nỗi bay mùi lên trời. Tình trạng nầy
chỉ xảy ra sau nạn nước lụt 400 năm, -- nạn nước lụt mà mọi người sống thời đó
còn có thể nhớ rõ. Vậy mà ai nấy đã quên bài học do đại tai biến tiêu diệt loài
người đó. Và Ðức Chúa Trời "giáng mưa diêm sanh và lửa" (Sáng thế ký
19:24) để nhắc cho loài người nhớ, để cảnh cáo về cơn thạnh nộ của Ngài vẫn
dành sẵn cho kẻ ác, và có lẽ cũng để dùng làm bằng chứng rằng sau rốt, trái đất
sẽ bị đoán phạt bằng lửa hừng (II Phi-e-rơ 2:5, 6; 3:7, 10).
Ðức Chúa Jêsus ví sánh lúc
Ngài tái lâm với thời kỳ của Sô-đôm (Lu-ca 17:26-32), cũng như với thời kỳ nước
lụt. Cả hai thời kỳ nầy gian ác khôn tả xiết. Ngày nay có sự tham lam, hung bạo,
thú tánh và trực giác sát nhơn hơn bao giờ hết trong lịch sử; ấy là do quỉ địa
ngục đang cai trị lòng những kẻ cầm quyền tối cao trên mặt đất. Vậy, ta không
cần phải giàu trí tưởng tượng mới thấy thế giới đang tiến tới chung cuộc nào,
mặc dầu nhiều thiện nhơn và chánh khách cố tránh chừng nào. Nếu chẳng có một
phong trào Ăn Năn khắp thế giới, thì ngày Ðoán phạt chẳng bao xa.
Vị trí của Sô-đôm và Gô-mô-rơ
Ở phần cực bắc hoặc phần cực
nam của Biển Chết. "Sô-đôm" (Usdom)
là tên của hòn núi ở góc tây nam . Theo truyền thoại từ thời cổ, địa hình đã
trải qua những cuộc biến cải lớn lao chung quanh phần cực nam của Biển Chết khi
thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ bị hủy diệt. Nói chung, các văn sĩ thượng cổ nghĩ rằng
vị trí của hai đô thị nầy đã bị chôn vùi dưới nước Biển Chết.
Biển Chết
Biển Chết dài chừng 40 dặm và
rộng chừng 10 dặm. Phần cực bắc rất sâu, có chỗ sâu tới hơn 300 thước tây. Ở
phần phía Nam, không có chỗ nào sâu quá 5 thước, và nhiều chỗ chỉ sâu hơn 3
thước tây. Ngày nay mực nước cao hơn đương thời Áp-ra-ham, vì cớ sông Giô-đanh
và nhiều dòng nước đổ bùn vào mà không có lối thoát. Chỗ bây giờ là phần phía
Nam của Biển Chết, thì khi ấy là một đồng bằng.
Bí Chú Khảo Cổ:
Năm 1924, Tấn sĩ W.F. Albright và Tấn sĩ M.G. Kyle, chỉ huy phái đoàn hỗn hợp của
các Học đường Mỹ và Thần đạo Học viện Xenia,
đã tìm thấy năm khoảng đất có cây cối ở giữa sa mạc (oasis) do những suối nước trong mát tạo nên; chính giữa năm khoảng
nầy, trên một đồng vắng cao hơn mặt Biển Chết chừng 160 thước, tại một chỗ gọi
là Bab-ed-Dra, có di tích của một
vách thành lớn xây kín, rõ ràng lắm là một "nơi cao" để mở hội hè tôn
giáo. Có rất nhiều mảnh bát, chén bể, đá lửa, và di tích khác của một thời kỳ
từ 2500 đến 2000 năm T.C; và cũng có chứng cớ tỏ ra rằng nhơn dân ở đây thình
lình không còn nữa, vào khoảng năm 2000 T.C.. Chứng cớ miền nầy vốn đông dân và
thạnh vượng tỏ ra rằng chắc nó đã phì nhiêu "cũng như vườn của Ðức
Giê-hô-va" (Sáng thế ký 13:10). Ðến như nhơn dân thình lình không còn nữa
và từ đó tới nay miền nầy hoang vu trơn trọi, thì dường như tỏ ra rằng khu vực
nầy bị hủy phá bởi một đại tai biến đã thay đổi cả đất đai và khí hậu.
Ý kiến của Albright, Kyle và phần đông các nhà khảo cổ học ngày nay là Sô-đôm và
Gô-mô-rơ lập trên những khoảng đất có cây cối giữa sa mạc nầy, ở phần hạ lưu
của các suối nước, và vị trí nầy ngày nay bị Biển Chết khỏa lấp.
Các "hố nhựa chai" và "diêm sanh" (14:10; 19:24)
"Nhựa chai" là chất lịch thanh (bitume),
nhựa tráng đường (asphalte), hoặc hắc
ín (goudron), tức là một chất đen,
láng, có lẫn dầu lửa, tan ra và bốc cháy được. Có những lớp nhựa chai rộng lớn
ở hai bên bờ Biển Chết, và phần cực nam có nhiều hơn; dưới đáy Biển Chết cũng
có nhiều vùng nhựa chai rộng lớn. Trong các cơn động đất, vô số nhựa chai đã
nổi lên mặt nước.
"Diêm sanh". -- Tấn sĩ Kyle
nói rằng dưới núi Usdom có một lớp
muối dày gần 50 thước tây; trên lớp muối nầy có một lớp đất sét lộn đất vôi (marne) và diêm sanh. Lớp nầy có đúng vào
lúc Ðức Chúa Trời nhóm lửa; có một tiếng nổ dữ dội, muối và diêm sanh tung lên
trời, đỏ rực và rơi xuống, đến nỗi thật đã có mưa lửa và diêm sanh từ trời đổ
xuống. Vợ của Lót đã bị muối phủ kín như một lớp vỏ cứng. Có nhiều trụ muối ở
phần cực nam Biển Chết đã mang tên "Vợ của Lót." Quả thật, mọi sự
kiện ở miền nầy dường như ăn hiệp trọn vẹn với truyện tích Kinh Thánh về thành
Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
Bản đồ số 26
Ðoạn 20 -- Sa-ra và A-bi-mê-léc
Dầu Áp-ra-ham định cư tại
Hếp-rôn, nhưng từng hồi từng lúc, ông cũng đi từ chỗ nầy đến chỗ kia, để tìm
đồng cỏ cho các bầy súc vật. Tại Ghê-ra, một đô thị Phi-li-tin, cách Hếp-rôn
chừng 40 dặm về phía Tây, gần bờ biển, ông đã gặp việc rắc rối cũng như đã bị
với Pha-ra-ôn (12:10-20). Sa-ra chắc phải có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng
thành, nên đã cao tuổi như vậy mà còn được các vua chúa chú ý. Về sau, Y-sác và
Rê-be-ca cũng bị rắc rối như vậy với một A-bi-mê-léc khác, tại chính đô thị nầy
(đoạn 26).
Bí Chú Khảo Cổ: Các đô thị thời tộc trưởng
Tại nhiều đô thị có liên quan
với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, tỉ như Si-chem, Bê-tên, A-hi, Giê-ru-sa-lem,
Ghê-ra, Ðô-ta-in, ông Albright và ông
Garstang đã tìm thấy, ở từng dưới
cùng các di tích những đô thị đó, nhiều mảnh đồ gốm vào khoảng 2000 năm T.C.,
đủ chứng tỏ rằng lúc ấy thật đã có những đô thị đó.
Bản đồ số 27 -- Miền Áp-ra-ham cư ngụ
Ðoạn 21 -- Y-sác sanh ra
Lúc nầy, Ích-ma-ên đã được
chừng 15 tuổi rồi (5:8; 16:16). Phao-lô dùng truyện tích hai câu nầy làm thí dụ
về giao ước Môi-se và giao ước Ðấng Christ (Ga-la-ti 4:21-31).
Bê-e-sê-ba (câu 30-31), là nơi
Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp cư ngụ rất lâu, ở biên giới cực nam của xứ
Ca-na-an, cách Hếp-rôn chừng 20 dặm về phía Tây nam, và cách Ai-cập 150 dặm. Ðây
là chỗ có "bảy cái giếng." Trong một xứ gần như sa mạc, giếng là một
vật sở hữu vô giá. Chính những giếng nầy vẫn còn ở đó.
Ðoạn 22 -- Áp-ra-ham dâng Y-sác làm tế lễ
"Ðức Chúa Trời truyền làm
việc ấy chỉ cốt để cấm việc ấy." Ðây là sự thử thách đức tin Áp-ra-ham. Ðức
Chúa Trời đã hứa rằng Y-sác sẽ là cha của nhiều dân tộc (17:16). Nhưng đây Ðức
Chúa Trời truyền lịnh giết Y-sác khi chàng chưa sanh được một con cái nào. Tuy
nhiên, Áp-ra-ham tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ làm cho chàng sống lại (Hê-bơ-rơ
11:19). Chúng ta chẳng biết Ðức Chúa Trời dùng cách nào mà bày tỏ mạng lịnh ấy
cho Áp-ra-ham. Nhưng ông không thể nào nghi ngờ rằng đó không phải là tiếng
phán của Ngài; vì nếu chẳng tuyệt đối biết chắc rằng Ðức Chúa Trời đã truyền
lịnh trực tiếp và dứt khoát, ắt ông không ra đi làm một việc tàn ác và đáng bất
bình dường ấy! Có thuyết nào cho rằng Áp-ra-ham chịu ảnh hưởng của tục lệ người
Ca-na-an dâng con trẻ làm tế lễ, nên chỉ tưởng tượng mình cũng phải dâng Y-sác
làm tế lễ; nhưng thuyết nầy hoàn toàn phi lý, vì ý tưởng nầy phát xuất từ Ðức
Chúa Trời, chớ chẳng từ Áp-ra-ham.
Sự dâng Y-sác làm tế lễ là
hình bóng và lời tiên tri về sự chết của Ðấng Christ. Ðây là cha dâng con mình làm
tế lễ. Trong trí óc của Áp-ra-ham, Y-sác đã chết ba ngày (câu 4). Ðây cũng có
sự thay thế và một tế lễ thật. Và việc đã xảy ra trên núi Mô-ri-a, tại chính
nơi nầy, 2000 năm sau, Con Ðức Chúa Trời cũng chịu dâng mình làm tế lễ. Vậy,
ngay lúc khai sanh dân tộc Hê-bơ-rơ, sự dâng Y-sác làm tế lễ nầy là hình bóng
về Biến cố Trọng đại mà dân tộc ấy sanh ra để thực hiện.
Ðoạn 23 -- Sa-ra qua đời
Hang đá Mặc-bê-la, nơi an táng
Sa-ra, ở sườn phía Tây núi Hếp-rôn, trong một giáo đường thuộc quyền kiểm soát
của người Hồi giáo; họ không cho phép tín đồ Ðấng Christ vào đó. Năm 1862, vị
vua Hồi giáo đã đặc biệt cho phép thái tử nước Anh vào đó. Thái tử đã thấy mộ
phần bằng đá của Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Sa-ra, Rê-be-ca và Lê-a. Có một cửa
hình tròn dẫn xuống cái hang bên dưới; và người ta đoán rằng đó chính thật là
hang đá Mặc-bê-la; họ cũng nói rằng từ 600 năm nay, chẳng có ai bước chơn vào
đó.
Bản đồ số 28 -- Thế giới đương thời Áp-ra-ham
Ðoạn 24 -- Y-sác cưới Rê-be-ca làm vợ
Rê-be-ca là em họ của Y-sác, về dòng thứ hai. Mục
đích của Áp-ra-ham khi ông cho đưa Y-sác về quê hương và vùng bà con mình để
hỏi vợ là để giữ cho dòng dõi mình thoát khỏi sự thờ lạy hình tượng. Nếu Y-sác
cưới một thiếu nữ Ca-na-an làm vợ, thì lịch sử dân Y-sơ-ra-ên đã đổi khác biết
bao! Ðó là một bài học quan hệ biết bao cho thanh niên trong sự kén chọn bạn
trăm năm!
Ðoạn 25:1-11 -- Áp-ra-ham qua đời
Sa-ra qua đời năm 127 tuổi, vào lúc đó Áp-ra-ham
được 137 tuổi. Sau đó, ông còn sống 38 năm nữa, và trong thời gian nầy, ông đã
cưới Kê-tu-ra. Nàng sanh cho ông 6 con trai, là tổ phụ của dân Ma-đi-an và mấy
dân tộc lân cận. 500 năm sau, Môi-se đã cưới một thiếu nữ Ma-đi-an (Xuất
Ê-díp-tô ký 2:16-21). Về đại cương, Áp-ra-ham là "vị tộc trưởng danh
tiếng, thanh khiết nhứt và đáng kính trọng nhứt, được cả người Do-thái, người
Hồi giáo và tín đồ Ðấng Christ tôn quí." Ông là "bạn Ðức Chúa
Trời" (Gia-cơ 2:23), và "làm cha hết thảy những kẻ tin" (Rô-ma
4:11). Ông rộng lượng và vô kỷ. Ông là một nhơn vật tuyệt hảo, có lòng tin cậy
vô biên nơi Ðức Chúa Trời, mặc dầu ông ở gần hai thành Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và thở
hút không khí của hai thành ấy.
"Dòng dõi của Ích-ma-ên" (25:12-18)
Ðây là tài liệu thứ tám trong số tài liệu hợp thành
sách Sáng thế ký. Ích-ma-ên là con trai của Áp-ra-ham, do A-ga sanh ra và vốn
là người Ai-cập (đoạn 16). Dòng dõi Ích-ma-ên cư ngụ tại xứ A-ra-bi và thường
được gọi là người Ả-rập. Như vậy, Áp-ra-ham là tổ phụ của chủng tộc Ả-rập ngày
nay. Sự tranh cạnh giữa Y-sác và Ích-ma-ên cứ kéo dài suốt các thế kỷ, do sự đố
kỵ giữa người Do-thái và người Ả-rập.
Xứ A-ra-bi là một bán đảo lớn, dài 158 dặm, rộng
800 dặm, và lớn gấp chừng 150 lần xứ Pa-lét-tin. Phần lớn là sa mạc, rải rác
thấy những khoảng đất có cây cối, và cư dân thưa thớt gồm các bộ lạc du mục.
Ngày xưa, xứ A-ra-bi có nhiều mưa và nhiều cư dân hơn ngày nay. Những sự thay
đổi khí hậu làm ít mưa đi, và các dòng nước khô cạn.
"Dòng dõi của Y-sác" (25:19 đến 35:29)
Ðây là tài liệu thứ chín trong số các tài liệu hợp
thành sách Sáng thế ký. Ðây là truyện tích Y-sác và Gia-cốp, do chính Gia-cốp
truyền lại cho các con trai ông.
Ðoạn 25:19-34 -- Ê-sau và Gia-cốp sanh
ra
Ê-sau, con trưởng nam, tự nhiên là kẻ kế tự Y-sác
và thừa hưởng các lời hứa đã ban cho Áp-ra-ham. Nhưng Ðức Chúa Trời biết tánh
hạnh của hai người nầy trước khi họ sanh ra, nên Ngài đã chọn Gia-cốp để lưu
truyền gia tài quí báu. Ngài đã tỏ điều ấy cho thân mẫu của hai người (câu 23),
và bà dạy lại cho Gia-cốp biết từ lúc chàng còn thơ ấu. Ðó là bối cảnh của cách
Gia-cốp đối xử với Ê-sau (câu 31).
Trong dòng dõi lời hứa, chỉ có Y-sác được lựa chọn,
còn hết thảy con trai khác của Áp-ra-ham đã bị loại bỏ. Trong số các con trai
của Y-sác, thì Ê-sau đã bị loại bỏ khỏi dòng dõi lời hứa, còn Gia-cốp được lựa
chọn. Tới Gia-cốp, thì phương thức loại bỏ không thi hành nữa, vì hết thảy dòng
dõi của Gia-cốp được đứng trong số tuyển dân.
Ðoạn 26 -- Y-sác kiều ngụ giữa vòng dân
Phi-li-tin
Kinh Thánh không chép nhiều về đời sống của Y-sác,
trừ việc xảy ra giữa A-bi-mê- léc và Rê-be-ca, cùng sự tranh giành các giếng
nước. Ông đã thừa hưởng các bầy súc vật đông đúc của cha để lại; ông thạnh
vượng, giàu có, ưa hòa bình và cuộc đời ông không có biến cố nào quan trọng.
Y-sác sanh ra khi Áp-ra-ham được 100 tuổi và Sa-ra
90 tuổi; khi ông 37 tuổi, thì mẹ qua đời; ông cưới vợ năm 40 tuổi, và Gia-cốp
sanh ra lúc ông 60 tuổi; ông 75 tuổi khi Áp-ra-ham qua đời, 137 tuổi (?) khi
Gia-cốp chạy trốn, 150 tuổi (?) khi Giô-sép sanh ra, 157 tuổi (?) khi Gia-cốp
trở về, 167 tuổi khi Giô-sép bị bán làm tôi mọi. Ông qua đời năm 180 tuổi,
chính năm Giô-sép lên cầm quyền cai trị nước Ai-cập.
Áp-ra-ham hưởng thọ 175 tuổi, Y-sác 180 tuổi,
Gia-cốp 147 tuổi, Giô-sép 110 tuổi.
Ðiều Quan Trọng: "Lịnh, luật và lệ(1)"
(câu 5). Câu Kinh Thánh nầy dường như chứng tỏ rằng đương thời Áp-ra-ham đã có
phần đầu của Lời Ðức Chúa Trời được biên chép ra.
Ðoạn 27 -- Gia-cốp được cha chúc phước
cho
Chàng đã mua quyền trưởng nam của Ê-sau rồi
(25:31-34). Bây giờ cần phải được cha xác nhận sự chuyển mại. Chàng dùng mưu
chước để thực hiện điều ấy. Ðể đánh giá tánh cách đạo đức của hành động
Gia-cốp, phải xét tới mấy điểm sau đây: 1) Mẹ chàng xui giục chàng làm việc ấy;
2) Chàng sốt sắng mong ước được quyền trưởng nam, đó là điều đáng khen, mặc dầu
chàng đã dùng phương pháp cong quẹo để được quyền ấy; vì quyền trưởng nam có
nghĩa là làm môi giới để truyền lời hứa lạ lùng của Ðức Chúa Trời ban phước
lành cho cả thế giới; 3) Có lẽ chàng có thể được quyền trưởng nam ấy bằng một
cách khác; 4) Ê-sau không màng tới quyền ấy chút nào; 5) Gia-cốp phải trả giá
sự gian trá của mình rất mắc (xem đoạn 29 dưới đây); 6) Chính Ðức Chúa Trời đặt
nền tảng của những kế hoạch vĩ đại cho thế giới (Rô-ma 9:10-13), và Ngài đã lựa
chọn từ trước khi hai chàng sanh ra (Sáng thế ký 25:23).
Những lời tiên tri của
Y-sác (câu 29, 40). -- Ðức Chúa Trời
chắc đã đặt những lời nầy vào miệng Y-sác, vì nó đã ứng nghiệm lạ lùng. Dòng
dõi của Gia-cốp thật chiếm được địa vị bá chủ giữa các dân; và theo thời gian,
dòng dõi ấy sanh ra Ðấng Christ, do Ngài mà họ cứ tiến tới địa vị bá chủ hoàn
cầu. Dòng dõi của Ê-sau, là dân Ê-đôm, phải phục tòng dân Y-sơ-ra-ên, và có lúc
họ thật đã bẻ gãy ách thống trị của dân Y-sơ-ra-ên (II Các vua 8:20-22). Nhưng
rốt lại, họ đã biến mất khỏi lịch sử.
Ðoạn 28 -- Sự hiện thấy của Gia-cốp tại
Bê-tên
Y-sác đã xác nhận sự chuyển giao quyền trưởng nam
từ Ê-sau qua Gia-cốp. Bây giờ nó lại được xác nhận trên Thiên đàng, vì chính
Ðức Chúa Trời quả quyết với Gia- cốp rằng từ nay trở đi, chàng được thừa nhận
là môi giới của các lời hứa. Cái thang ngụ ý rằng các lời hứa bề nào cũng lên
tới tuyệt điểm, là làm cái cầu nối liền Thiên đàng với trái đất. Ðức Chúa Jêsus
phán chính Ngài là Cái Thang (Giăng 1:51).
Người ta cho rằng lúc nầy Gia-cốp được 77 tuổi. Ông
được 15 tuổi khi Áp-ra-ham qua đời, 84 tuổi mới cưới vợ, 90 tuổi khi Giô-sép
sanh ra, và 98 tuổi khi trở về xứ Ca-na-an. Ông chừng 100 tuổi khi Bên-gia-min
sanh ra, 120 tuổi khi Y-sác qua đời, 130 tuổi khi xuống Ai-cập, và 147 tuổi khi
qua đời.
Ông sống 77 năm đầu tại Ca-na an, sống 20 năm sau
đó tại Cha-ran, rồi sống 33 năm tại xứ Ca-na-an, và 17 năm cuối cùng tại
Ai-cập.
Ðoạn 29, 30 -- Gia-cốp kiều ngụ tại
Cha-ran
Cha-ran cách xứ Ca-na-an chừng 400 dặm về phía đông
bắc. Ðó là nơi Rê-be-ca, mẹ của Gia-cốp sanh trưởng, và lâu năm về trước, ông
nội của chàng, là Áp-ra-ham, đã từ đó di cư đi. La-ban là cậu của Gia-cốp. Gia-cốp
ở đây 20 năm. Thật là những năm khó nhọc và đau khổ. Chàng đã bị lừa gạt mà
phải cưới người vợ mình không ưa thích, đúng như chàng đã dùng mưu lừa gạt mà
được cha chúc phước cho. Chàng đã bắt đầu gặt chính cái mình đã gieo. Mùa gặt
của chàng thật là chứa chan, đầy dẫy (Ga-la-ti 6:7).
Gia đình của Gia-cốp
Ông có hai vợ và hai nàng hầu. Trừ ra một người vợ,
là Ra-chên, còn thì ông chẳng ưa thích, nhưng do hoàn cảnh không may mà buộc
phải chung sống với họ. Bốn bà nầy đã sanh hạ được 12 con trai.
Lê-a sanh Ru-bên, Si-mê-ôn,
Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn.
Ra-chên sanh Giô-sép,
Bên-gia-min.
Xinh-ba, con đòi của Lê-a,
sanh Gát, A-se.
Bi-la, con đòi của Ra-chên,
sanh Ðan, Nép-ta-li.
Gia đình đa thê nầy có nhiều
truyện xấu hổ, nhưng về toàn thể, đã được Ðức Chúa Trời tiếp nhận làm tổ tiên
của 12 chi phái hợp thành nước Ðấng Mê-si, tức là nước được Ðức Chúa Trời lựa
chọn để đưa Ðấng Mê-si vào trong thế gian. Ðiều nầy tỏ ra rằng:
1. Ðức Chúa Trời dùng người
ta, trong nguyên trạng của họ, để làm thành các ý định của Ngài, và với
"vật liệu" sử dụng. Ngài dường như đã làm được công việc tốt hết sức.
2. Không có gì tỏ rằng mọi
người mà Ðức Chúa Trời dùng như vậy đều sẽ được cứu rỗi đời đời. Người ta có
thể được Ðức Chúa Trời dùng thi hành kế hoạch của Ngài trong thế giới nầy mà
vẫn chẳng đủ tư cách để hưởng phước đời đời khi Ðức Chúa Trời đoán xét những sự
kín nhiệm của người ta để tuyên định chung thẩm (Rô-ma 2:12-16).
3. Ðây là một chứng cớ tỏ ra
các tác giả Kinh Thánh đã thành thật. Không có sách nào khác trên thế giới đã
thuật lại một cách thật thà trọn vẹn như vậy nhược điểm của các vai chính cùng
những sự việc trái hẳn với lý tưởng mà nó định đề cao.
Ðoạn 31, 32, 33 -- Gia-cốp trở về xứ
Ca-na-an
20 năm trước, ông đã từ giã xứ Ca-na-an, ra đi một
mình với hai bàn tay trắng. Bây giờ ông trở về, là chúa của một bộ lạc, có rất
nhiều bầy súc vật và tôi tớ. Ðức Chúa Trời đã giữ lời hứa với Gia-cốp (28:15),
mặc dầu ông phải trải qua nhiều nỗi khó khăn. Việc Gia-cốp phân rẽ với La-ban
sanh ra lời chúc phước tốt đẹp tại Mích-ba mà ngày nay rất nhiều người dùng:
"Khi chúng ta phân cách nhau, cầu xin Ðức Chúa Trời coi sóc cậu và
cháu!" (31:49).
Khi Gia-cốp lìa khỏi xứ Ca-na-an, thì các thiên sứ
chúc ông được Ðức Chúa Trời đưa đi mau lẹ (28:12); khi ông trở về, thì có thiên
sứ đón mừng (32:1).
Y-sác vẫn còn sống. Áp-ra-ham
đã qua đời chừng 100 năm rồi. Bây giờ Gia-cốp vào hưởng cơ nghiệp trong Ðất
Hứa, là xứ Ca-na-an. Từ trước tới nay, Ðức Chúa Trời vẫn ở cùng ông suốt bước
đường đời gian khổ. Ông cảm thấy mình cần Ðức Chúa Trời hơn bao giờ hết
(32:24-30). Ê-sau đã thề giết ông (27:41), và ông vẫn còn sợ hãi. Nhưng họ đã
gặp nhau, rồi chia tay một cách hòa bình.
Ðoạn 34 -- Si-mê-ôn và Lê-vi trả thù cho Ði-na
Si-chem là nơi Gia-cốp dừng
lại trước nhứt khi ông trở về xứ Ca-na-an. Tại đây ông mua một khoảnh đất và
lập bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, dường như ông tính ở đó rất ít là trong một thời
gian. Nhưng hành động lưu luyến của Si-mê-ôn và Lê-vi khiến cho những người lân
cận gớm ghét; chẳng bao lâu ông dời đến Bê-tên cũng như Áp-ra-ham đã làm lâu
năm về trước.
Ðoạn 35 -- Ðức Chúa Trời lặp lại giao ước tại Bê-tên
Bê-tên là nơi 20 năm trước,
đang khi chạy trốn khỏi xứ Ca-na-an, Gia-cốp đã thấy cái Thang Thiên Thượng và
được Ðức Chúa Trời lập làm kẻ kế tự các lời hứa với Áp-ra-ham. Bây giờ Ngài lại
tái quyết với ông rằng các lời hứa ấy sẽ được ứng nghiệm. Ðoạn, Gia-cốp dời đến
Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và Y-sác đã cư trú. Ông ở đây chừng 30 năm, cho tới lúc
di cư xuống Ai-cập.
Ðoạn 36 -- Dòng dõi Ê-sau
Ðây là tài liệu thứ mười trong
số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Ðây là một bản lược thuật gốc tích của
người Ê-đôm.
Về cá tính của Ê-sau, ông là
người phàm tục, không mộ đạo và khinh quyền trưởng nam; trong ông chẳng có gì
đáng làm môi giới truyền phước của Ðức Chúa Trời cho thế giới. Ông chỉ chú ý
đến tư dục của mình. Gia-cốp chẳng phải là thiên sứ, nhưng so sánh với Ê-sau,
thì ông xứng đáng bội phần hơn để làm tổ phụ của dân Ðức Chúa Trời, tức là dân
sẽ sanh ra Ðấng Mê-si.
Người Ê-đôm và xứ Ê-đôm. -- Dân A-ma-léc (câu 12) là một nhánh của dòng dõi Ê-
sau. Họ là một bộ lạc không có chỗ ở nhứt định; phần lớn họ tập trung chung
quanh Ca-đe, là bắc phần của bán đảo Si-na-i; còn thì họ đi lang thang rất
rộng, rất xa, vào cả xứ Giu-đê đến tận Ðông phương. Họ là kẻ thù đầu tiên đã
tấn công dân Y-sơ-ra-ên khi dân nầy ra khỏi Ai-cập; họ cũng hà hiếp dân
Y-sơ-ra-ên đương thời các Quan xét.
Có người nghĩ rằng có lẽ
"Giô-báp" (câu 34) là Gióp, vai chánh trong sách Gióp. "Ê-li-pha"
và "Thê-ma" đều được nhắc tên trong sách Gióp. Ðoạn nầy có thể cung
hiến khung cảnh cho sách Gióp.
"Dòng dõi của Gia-cốp" (37:2 đến 50:26)
Ðây là đoạn thứ 11 và sau chót
trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Truyện tích Giô-sép và việc dân
Y-sơ-ra-ên di cư xuống Ai-cập chắc nhập chung với những ký văn của gia đình mà
họ đã nhận lãnh từ nơi Áp-ra-ham và đã kính cẩn gìn giữ trải qua những năm kiều
ngụ tại Ai-cập.
Ðoạn 37 -- Giô-sép bị bán xuống Ai-cập
"Cái áo dài có nhiều
sắc" (câu 3) là biểu hiệu của sự thiên vị; có lẽ nó tỏ ra Gia-cốp định ý lập
Giô-sép làm kẻ kế tự quyền trưởng nam.
Ru-bên, con trai đầu lòng của
Gia-cốp, tự nhiên được kế tự quyền trưởng nam; nhưng chàng bị truất quyền ấy vì
đã phạm tội loạn luân với một vợ bé của cha mình (35:22; 49:3, 4; I Sử ký 5:1,
2). Si-mê-ôn và Lê-vi, là người thứ hai và thứ ba có quyền kế tự cũng bị loại
bỏ vì đã phạm tội sát nhơn hung bạo tại Si-chem (34:25-30; 49:5-7). Giu-đa là
con trai thứ tư, và có lẽ trong gia đình ai cũng đoán rằng quyền trưởng nam sẽ
vào tay chàng.
Nhưng Giô-sép, mặc dầu là con trai
thứ 11 của Gia-cốp, mà lại là con đầu lòng của Ra-chên. Ra-chên là vợ được
Gia-cốp thương mến nhứt, và Giô-sép là con trai ông thương mến nhứt (37:3). Vậy
nên chiếc "áo dài" khả nghi lắm. Vả, những chiêm bao của Giô-sép về
quyền thế của mình càng làm cho tình hình nghiêm trọng.
Thế là Giu-đa và Giô-sép có vẻ
là địch thủ tranh quyền trưởng nam. Ðiều nầy có thể giải thích tại sao Giu-đa
lại tích cực dự phần bán Giô-sép làm tôi mọi (câu 26, 27). Sự kình địch giữa
Giu-đa và Giô-sép truyền qua dòng dõi của họ. Các chi phái Giu-đa và Ép-ra-im
(con trai Giô-sép) luôn luôn tranh giành ngôi bá chủ. Giu-đa làm thủ lãnh dưới
đời Ða-vít và Sa-lô-môn. Rồi họ Ép-ra-im làm thủ lãnh 10 chi phái đã ly khai.
Ðoạn 38 -- Con cái Giu-đa
Ðoạn nầy xen vào có lẽ vì
Giu-đa là tổ tiên của Ðấng Mê-si theo phần xác, và nó cũng phù hợp với mục đích
của Cựu Ước, là bảo vệ gia phổ suốt các đời kế tiếp nhau, mặc dầu có một vài
điều chẳng đáng khen lắm.
Ðoạn 39 -- Giô-sép bị tù
Giô-sép có tâm tánh không tì
vít chi, có sắc đẹp phi thường, có thiên tài lãnh đạo đặc biệt, và có thể triệt
để lợi dụng bất cứ nghịch cảnh nào. Chàng sanh tại Cha-ran, 75 năm sau khi
Áp-ra-ham qua đời, và 30 năm trước khi Y-sác qua đời, khi Gia-cốp, là cha nàng,
được 90 tuổi, và 8 năm trước khi họ trở về xứ Ca-na-an. Năm 17 tuổi, chàng bị
bán xuống Ai-cập, ở nhà Phô-ti-pha và ở tù tất cả 13 năm. Năm 30 tuổi, ông lên
cầm quyền nước Ai-cập, đến năm 110 tuổi thì qua đời.
Bí Chú Khảo Cổ: Giô-sép và vợ Phô-ti-pha
"Truyện hai anh em"
ghi trên một bản chỉ thảo thời cổ và hiện nay để tại Anh quốc Bảo tàng viện, đã
được chép dưới đời trị vì của Seti đệ
nhị, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập ít lâu. Truyện nầy giống hệt truyện
tích Giô-sép và vợ Phô-ti-pha, đến nỗi nhà ấn hành bản dịch quyển "Sử ký
Ai-cập" của Brugsch ra tiếng
Anh, phỏng đoán rằng truyện ấy dựa vào việc ngẫu nhiên nầy, là việc chắc đã
được ghi chép vào biên niên sử (annales)
của triều đình Ai-cập.
Truyện rằng: Một người anh đã
có vợ sai em trai chưa có vợ (anh đã giao hết mọi vật trong nhà vào tay em) về
nhà lấy ít lúa giống. Chị dâu bèn cám dỗ chàng. Chàng không chịu. Chị dâu nổi giận, bèn mách chồng rằng em trai đã
toan cưỡng hiếp mình. Anh toan mưu giết em. Em chạy trốn, và về sau lên làm vua
Ai-cập.
Ðoạn 40, 41 -- Giô-sép lên cai trị nước
Ai-cập
Giô- sép cưới con gái của thầy tế lễ thành Ôn; mặc
dầu ông có vợ ngoại đạo, cai trị một nước ngoại đạo và ở một trung tâm thờ lạy
hình tượng hư tệ, nhưng ông vẫn giữ vẹn đức tin từ ngày thơ ấu nơi Ðức Chúa
Trời của tổ tiên mình, là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
Bí Chú Khảo Cổ:
Dinh thự của Giô-sép tại
thành Ôn. -- Năm 1912, Huân tước Flinders Petrie tìm thấy di tích của một dinh thự mà ông cho là của Giô-sép.
Theo truyền thoại, thì đang khi lánh nạn tại Ai-cập, Giô-sép, Ma-ri và Ðức Chúa
Jêsus đã ngụ tại thành Ôn.
Bảy năm đói kém. -- Trong quyển "Nước Ai-cập dưới đời trị vì
của các Pha-ra-ôn," ông Brugsch
có nói đến một bi văn mà ông gọi là "bản xác nhận bảy năm đói kém một cách
rất lạ lùng và sáng tỏ." Có phần mộ gia đình đục trong vầng đá của một
người kia, tên là Baba, làm tổng đốc
đô thị El-Kab, ở phía Nam thành Thèbes; đô thị nầy được kiến thiết dưới
triều đại thứ 17, đồng thời với triều đại thứ 16 ở phương Bắc có Giô-sép cầm
quyền. Trong phần mộ nầy có một bi văn ghi lời Baba tự nhận đã làm cho đô thị mình chính việc Kinh Thánh chép rằng
Giô-sép đã làm cho cả nước Ai-cập: "Là bạn của thần mùa gặt, ta đã thâu
trữ lúa. Khi nạn đói kém xảy ra, kéo dài nhiều năm, ta đã phát lúa cho đô thị,
suốt mấy năm của nạn ấy." Brugsch
nói rằng: "Vì nạn đói kém ít khi xảy ra tại Ai-cập và vì Baba gần sống đồng thời với Giô-sép, nên
chỉ còn một cách suy luận đúng mà thôi: Ấy là 'nhiều năm đói kém' đương thời Baba chính là 'bảy năm đói kém' dưới đời
cai trị của Giô-sép."
Ðoạn 42 đến 45 -- Giô-sép tỏ mình
Người ta gọi các đoạn nầy là một trong những truyện
tích hay nhứt, đẹp nhứt của tất cả văn chương thế giới.
Ðiểm cảm động nhứt trong truyện tích nầy là cách
đây hơn mười năm, Giu-đa đã thủ xướng việc bán Giô-sép làm tôi mọi (37:26),
nhưng bây giờ tự hiến thân làm con tin thế cho Bên-gia-min (44:18-34); cử chỉ
nầy chuộc lại thiên tánh sát nhơn của chàng trước kia một phần nào.
Ðoạn 46, 47 -- Gia-cốp và gia đình ông
định cư tại Ai-cập
Có lẽ Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp tưởng rằng dòng
dõi mình sẽ tự nhiên đông đúc thêm và do đó chiếm hữu xứ Ca-na-an. Nhưng Ðức
Chúa Trời hoạch định một cách khác; Ngài chỉ định rằng dân Y-sơ-ra-ên phải được
trưởng dưỡng một thời gian tại Ai-cập, là nước có nền văn minh cao nhứt đương
thời ấy. Khi Gia-cốp ra khỏi xứ Ca-na-an, thì Ðức Chúa Trời quả quyết với ông
rằng dòng dõi ông sẽ trở về đó (46:3, 4).
Ðoạn 48, 49 -- Gia-cốp chúc phước và nói
tiên tri
Gia-cốp dường như đã chia quyền trưởng nam làm hai:
Ông chỉ định Giu-đa làm môi giới cho lời hứa về Ðấng Mê-si (49:10), nhưng lại
tuyên bố rằng Ép-ra-im, con trai của Giô-sép, sẽ được uy danh đặc biệt trong
nước (48:19-22; 49:22-26; I Sử ký 5:1, 2).
Lời tiên tri của Gia-cốp về 12 chi phái phù hợp lạ
lùng với lịch sử sau nầy của các chi phái ấy. Người ta thường cho rằng
"Si-lô" (câu 10) là một danh hiệu chỉ về Ðấng Mê-si. Chi phái Giu-đa
sanh ra Ða-vít, và gia tộc Ða-vít sanh ra Ðấng Christ.
Ðoạn 50 -- Gia-cốp và Giô-sép qua đời
Thi hài Gia-cốp được đưa về Hếp-rôn an táng. Tới
khi Giô-sép gần qua đời, thì ông đòi các anh em thề khi dân Y-sơ-ra-ên trở về
xứ Ca-na-an, thì sẽ chở hài cốt mình theo. Họ chẳng bỏ lòng tin tưởng rằng xứ
Ca-na-an sẽ còn là quê hương của họ; và 400 năm sau, khi dân Y-sơ-ra-ên lên
đường về Ca-na-an, thì họ chở hài cốt của Giô-sép theo (Xuất Ê-díp-tô ký
13:19).
(1) Hoặc: thế hệ
(2) Nguyên văn Sáng thế ký 2:4 là "dòng dõi" (thế hệ).
(2) Chữ "lúc" trong bản Kinh Thánh Việt ngữ theo nguyên văn là "ngày".
(1) Xem quyển: "Semitic Mythology" của Langdon, và quyển: "Field Museum-Oxford University Expedition to Kish" của Henry Field, cuốn 28.
(2) Xem quyển: "The Origin and Growth of Religion -- Facts and Theories" của Dr. Schmidt.
(2) Nguyên
văn là: "đầu."
(1) Nguyên
văn là nhân xưng đại danh từ (pronom personnel) , giống đực, số ít.
(1)
"Thành U-rơ của người Canh-đê."
(1) Có thể dịch là "các điều răn, qui tắc và
luật pháp."