Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 27 | Chương 29 >> | Hướng Dẫn
Ê-xê-chi-ên
Thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ
Sự đoán phạt các nước lân cận
Sự khôi phục Y-sơ-ra-ên
"Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Ðức Giê-hô-va"
Ê-xê-chi-ên là một tiên tri
trong thời kỳ bị lưu đày. Ông bị đem qua Ba-by-lôn năm 597 T.C., tức là 11 năm
trước khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy.
Y-sơ-ra-ên đã bị quân A-si-ri
bắt làm phu tù 120 năm trước:
734 T.C.. Xứ Ga-li-lê
và miền Bắc, miền Ðông Y-sơ-ra-ên, bởi tay Tiếc-la-Phi-lê-se.
721 T.C. Xứ Sa-ma-ri
là phần sót lại của Y-sơ-ra-ên, bởi tay Sa-gôn.
701 T.C. 200.000 dân Giu-đa, bởi tay San-chê-ríp.
Cuộc lưu đày của dân Giu-đa qua Ba-by-lôn đã thực
hiện như sau đây:
606 T.C. Một số phu tù bị đem qua Ba-by-lôn, kể cả
Ða-ni-ên.
597 T.C. Thêm phu tù bị bắt qua Ba-by-lôn, kể cả
Ê-xê-chi-ên.
586 T.C. Giê-ru-sa-lem bị thiêu hủy.
Cuộc lưu đày nầy kéo dài 70 năm (606-536 T.C.).
Ê-xê-chi-ên ở Ba-by-lôn từ năm 597 T.C. tới rất ít là năm 570 T.C.. Như vậy,
ông đã chịu phần nửa đầu của thời kỳ lưu đày.
Ê-xê-chi-ên và Ða-ni-ên
Khi Ê-xê-chi-ên tới Ba-by-lôn,
thì Ða-ni-ên đã ở đó 9 năm rồi, và đã được danh tiếng lớn. Ða-ni-ên ở trong
triều đình, còn Ê-xê-chi-ên ở trong xứ. Có lẽ hai ông thường gặp nhau.
Ê-xê-chi-ên và Giê-rê-mi
Cả hai ông là thầy tế lễ. Giê-rê-mi
cao tuổi hơn. Có lẽ Ê-xê-chi-ên là môn đệ của Giê-rê-mi. Khi Ê-xê-chi-ên bị bắt
đi khỏi thành Giê-ru-sa-lem, thì Giê-rê-mi đã làm xong quá nửa chức vụ. Ê-xê-chi-ên
giảng giữa vòng các phu tù những điều mà Giê- rê-mi giảng tại Giê-ru-sa-lem, ấy
là dân Giu-đa chắc chắn bị hình phạt vì cớ tội lỗi của họ.
Ê-xê-chi-ên và Giăng
Một vài sự hiện thấy của
Ê-xê-chi-ên dường như kéo dài tới sách Khải Huyền: Chê- ru-bin (Ê-xê-chi-ên 1;
Khải Huyền 4); Gót và Ma-gót (Ê-xê-chi-ên 38; Khải Huyền 20); ăn cuốn sách
(Ê-xê-chi-ên 3; Khải Huyền 10); thành Giê-ru-sa-lem mới (Ê-xê- chi-ên 40-48;
Khải Huyền 21); sông nước sự sống (Ê-xê-chi-ên 47; Khải Huyền 22).
"Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Ðức
Giê-hô-va"
Ðây là một lời cốt yếu trong
sách Ê-xê-chi-ên. Chúng ta đếm được 62 lần chép lời nầy: 6:7, 10, 13, 14; 7:4,
9, 27; 11:10, 12; 12:15, 16, 20; 13:9, 14, 21; 14:8; 15:7; 16:62; 17:21, 24;
20:21, 20, 28, 38, 42, 44; 21:5; 22:16, 22; 23:49; 24:24, 27; 25:5, 7, 11, 17;
26:6; 28:22, 23, 24, 26; 29:6, 9, 16, 21; 30:8, 19, 25, 26; 32:15; 33:29;
34:27, 30; 35:4, 9, 12, 15; 36:11, 23, 36, 38; 37:6, 13, 14, 28; 38:16, 23;
39:6, 7, 22, 23, 28.
Sứ mạng của Ê-xê-chi-ên dường
như là giải thích và chứng minh hành động của Ðức Chúa Trời khi Ngài khiến hoặc
cho phép dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày. Ấy vì họ đã phạm những sự gớm ghiếc không
tả xiết, tức là những sự gớm ghiếc đã gây cho nhiều dân tộc khác bị tuyệt diệt.
Nhưng đối với dân Y-sơ-ra-ên, chỉ là sự sửa phạt. Vì bị sửa phạt, họ sẽ Biết
Rằng Giê-Hô-Va Là Ðức Chúa Trời. Và họ thật đã biết. Cuộc lưu đày tại
Ba-by-lôn CỨứu Chữa dân Do-thái khỏi sự thờ lạy hình tượng. Cho tới lúc
đó, dầu có chi đi nữa, họ cũng vẫn thờ lạy hình tượng. Nhưng từ ngày đó tới
ngày nay, dầu dân Do-thái phạm tội chi khác, họ cũng không phạm tội thờ lạy
hình tượng nữa.
Niên biểu của sách Ê-xê-chi-ên
Then chốt của sách nầy là sự
hủy phá thành Giê-ru-sa-lem, xảy ra năm 586 T.C.. Các lời tiên tri của
Ê-xê-chi-ên có từ 6 năm trước đó, và kéo dài 16 năm sau đó, tổng cộng là 22
năm. Trước khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ, bằng cách nầy hoặc cách khác, Ê-xê-chi-ên
luôn luôn dự ngôn rằng chắc nó sẽ sụp đổ (đoạn 1-24). Sau đó, ông nói tiên tri
về các quốc gia thờ lạy hình tượng ở tiếp cận nước Y-sơ-ra-ên sẽ bị lật đổ
(đoạn 25-32), về nước Y-sơ-ra-ên sẽ được khôi phục và được vinh hiển trong
tương lai (đoạn 33-48).
Trừ một vài trường hợp không
quan trọng, các sự hiện thấy của ông đều theo thứ tự niên đại. Các năm thì tính
từ lúc Giê-hô-gia-kin bị bắt làm phu tù, tức là năm 597 T.C.. Người ta cho rằng
"Năm thứ 30" (1:1), tương đương với "năm thứ 5" của thời kỳ
Giê-hô-gia-kin bị lưu đày, chính là năm Ê-xê-chi-ên được 30 tuổi (tuổi người
Lê-vi bắt đầu thi hành chức vụ -- Dân số ký 4:3; -- Ðức Chúa Jêsus và Giăng
Báp-tít cũng bắt đầu chức vụ năm 30 tuổi). Hoặc cũng có thể là năm thứ 30 của
nền độc lập Ba-by-lôn, thoát khỏi quyền bá chủ của A-si-ri, do Nabopolasar giành được năm 625 T.C..
Niên hiệu các sự hiện thấy của Ê-xê-chi-ên
là như sau đây: |
||||
Ðoạn 1:2 |
Năm thứ 5 |
Tháng 4 (tháng 7 dương lịch) |
Ngày 5 |
592 T.C. |
Ðoạn 8:1 |
Năm thứ 6 |
Tháng 6
(tháng 9 dương lịch) |
Ngày 5 |
591 T.C. |
Ðoạn 20:1 |
Năm thứ 7 |
Tháng 5
(tháng 8 dương lịch) |
Ngày 10 |
590 T.C. |
Ðoạn 24:1 |
Năm thứ 9 |
Tháng 10
(tháng 1 dương lịch) |
Ngày 10 |
587 T.C. |
Cuộc
vây hãm thành Giê-ru-sa-lem bắt đầu năm thứ 9, tháng 10, ngày 10 |
||||
Ðoạn 26:1 |
Năm thứ 11 |
Tháng 5 (?)
(tháng 8 dương lịch) |
Ngày 1 |
586 T.C. |
Ðoạn 29:1 |
Năm thứ 10 |
Tháng 10
(tháng 1 dương lịch) |
Ngày 12 |
586 T.C. |
Ðoạn 29:17 |
Năm thứ 27 |
Tháng 1 (tháng 4 dương lịch) |
Ngày 1 |
570 T.C. |
Ðoạn 30:20 |
Năm thứ 11 |
Tháng 1 (tháng 4 dương lịch) |
Ngày 7 |
586 T.C. |
Ðoạn 31:1 |
Năm thứ 11 |
Tháng 3 (tháng 6 dương lịch) |
Ngày 1 |
586 T.C. |
Thành
Giê-ru-sa-lem sụp đổ năm thứ 11, tháng 4, ngày 9 |
||||
Ðoạn 32:1 |
Năm thứ 12 |
Tháng 12 (tháng 3 dương lịch) |
Ngày 1 |
584 T.C. |
Ðoạn 32:17 |
Năm thứ 12 |
Tháng 12 (?) (tháng 3 dương lịch) |
Ngày 15 |
584 T.C. |
Ðoạn 33:21 |
Năm thứ 12 |
Tháng 10 (tháng 1 dương lịch) |
Ngày 5 |
584 T.C. |
Ðoạn 40:1 |
Năm thứ 25 |
Tháng 1 (?) (tháng 4 dương lịch) |
Ngày 10 |
572 T.C. |
Vì Ê-xê-chi-ên rất cẩn thận ghi niên hiệu các sự
hiện thấy của ông, thậm chí ghi đúng cả ngày nữa, nên ta phỏng đoán rằng mọi
biến cố chép sau một niên hiệu nhứt định đều thuộc về niên hiệu ấy, cho tới chỗ
ghi một niên hiệu mới.
Ðoạn 1:1-3 -- Nơi ở và niên hiệu của Ê-xê-chi-ên
Ông bị bắt đi làm phu tù cùng với vua
Giê-hô-gia-kin năm 597 T.C. (ông nói về sự trạng ấy rằng: Chúng ta bị bắt làm phu tù -- 32:21; 40:1). Ông có vợ (24:15-18) và
có nhà riêng (8:1). Ông sống giữa đám phu tù, trên bờ sông Kê-ba, là con kinh
lớn cho tàu chạy, tách khỏi sông Ơ-phơ-rát phía trên Ba-by-lôn và chạy qua
thành Nippur mà đổ vào sông Ti-gơ-rơ.
Nippur cách Ba-by-lôn 50 dặm về phía
Ðông nam, chính là Ca-lách, một trong những thành mà Nim-rốt đã xây cất sau nạn
nước lụt ít lâu (10:11). Tên A-bíp dường như là thị trấn Ê-xê-chi-ên cư ngụ
(3:15, 24). Người ta cho rằng tên A-bíp ở gần Nippur.
Trong miền nầy có một làng tên là "Kilfil,"
là chữ "Ê-xê-chi-ên" trong tiếng Ả-rập; theo truyền thoại, thì ông ở
đây và cũng được an táng tại đây. Cách đó chừng 40 dặm, có thành Fara, là nơi, theo truyền thoại, Nô-ê đã
cư ngụ. Có lẽ vì đó mà Ê-xê-chi-ên đã nhắc đến tên Nô-ê (14:14, 20). Còn Eridu, vị trí của vườn Ê-đen theo truyền
thoại, thì chỉ cách xa 100 dặm. Có lẽ vì đó mà Ê-xê-chi-ên thường nhắc đến vườn
Ê-đen (28:13; 31:8, 9, 16, 18; 36:35).
"Con
người": Ðức Chúa Trời kêu Ê-xê-chi-ên bằng danh hiệu ấy 90 lần. Trong sách
Ða-ni-ên 7:13, danh hiệu ấy dùng chỉ về Ðấng Mê-si. Ðó là phẩm tước mà Ðức Chúa
Jêsus thường dùng để chỉ về Ngài (xem ở dưới Giăng 1:14).
Sự hiện thấy và hành động
tượng trưng là đặc điểm của sách Ê-xê-chi-ên. Một vài hành động tượng trưng của
ông có kèm theo những sự đau đớn, buồn thảm, cay đắng nặng nề nhứt cho bổn thân
ông. Ông phải câm một thời gian lâu (3:26; 24:27; 33:22); phải nằm nghiêng một
bề suốt hơn một năm (4:5); phải ăn thực phẩm kinh tởm (4:15); và vợ ông mà ông
hết sức thương mến đã bị cất đi thình lình (24:16-18).
Ðoạn 1:4-28 -- Sự hiện thấy của Ê-xê-chi-ên về
Ðức Chúa Trời
Những "vật sống"
được xác định là "chê-ru-bin" (10:20). Mỗi vật sống đứng giữa một
cạnh của một hình vuông, sè cánh ra đụng tới các góc của hình vuông. Mỗi
chê-ru- bin có bốn mặt: mặt người từ hình vuông nhìn ra phía ngoài; bên hữu là
mặt sư tử; bên tả là mặt bò; phía sau có mặt chim ưng nhìn vào trung tâm hình
vuông. Có bốn cái "bánh xe quay chóng" to lớn (10:6), mỗi bánh xe ở
bên cạnh một chê-ru-bin. Các bánh xe hình như bằng lục ngọc thạch, và vành bánh
xe đầy những mắt. Bốn vật sống nầy chuyển vận từ nơi nọ đến nơi kia như chớp
nhoáng, phát ra tiếng động như đại dương gầm thét.
Bên trên các vật sống có
"một vòng khung giống như thủy tinh" (câu 22). Trên vòng khung có cái
ngai bằng bích ngọc. Trên ngai "có hình như Người" (câu 26), mặc ánh
sáng ngời và có cái móng bao bọc. Khung của cảnh trạng nầy là đám mây bảo vĩ
đại và những chớp lửa quay mau. Ðức Chúa Trời đã hiện ra với Ê-xê-chi-ên dưới
hình trạng ấy. Mọi sự nầy có nghĩa chỉ về Ngài vinh hiển, quyền oai, toàn tri,
toàn năng, tối cao, oai nghiêm và chí thánh.
Chê-ru-bin đã canh giữ con
đường đến cây sự sống (Sáng thế ký 3:24). Hình chê-ru- bin được đặt trên hòm
giao ước (Xuất Ê-díp-tô ký 25:18-20) và thêu trên bức màn của Ðền tạm (Xuất Ê-díp-tô ký 26:31). Hình chê-ru-bin
được tái tạo trong Ðền thờ (I Các vua 6:23, 29; II Sử ký 3:14). Không cần suy
nghĩ rằng những thần tượng hình bò tót có cánh và mặt người, hoặc có đầu chim
ưng, đã gợi cho Ê-xê-chi-ên sự hiện thấy về những vật sống hỗn hợp nầy. Là thầy
tế lễ, ông đã thấy các chê-ru-bin trong Ðền thờ. Từ lúc ban đầu, các chê-ru-bin
liên quan với ý tưởng trong Kinh Thánh về tư cách thiên sứ hầu việc Ðức Chúa
Trời. Trong sách Khải Huyền 4:6, 7; 5:6; 6:1, 6; 7:11; 14:3; 15:7; 19:4, các
chê-ru-bin đều liên quan mật thiết với số phận của Hội Thánh đang được tỏ ra.
Chê-ru-bin là gì? Người ta
thường nghĩ rằng chê-ru-bin là một ban thiên sứ thể hiện các đức tánh của muôn
loài có sanh khí và liên hiệp với Ðức Chúa Trời trong khi Ngài tể trị vũ trụ. Có
người kể chê-ru-bin là tượng trưng cho nhơn loại được cứu chuộc, bày tỏ các
quyền năng của thân thể phục sanh. Xem thêm ở Khải Huyền 4:6.
Ðoạn 2, 3 -- Sứ mạng của Ê-xê-chi-ên
Ngay lúc đầu, Ðức Chúa Trời
cảnh cáo Ê-xê-chi-ên rằng ông được kêu gọi sống một đời chịu khó nhọc và bắt
bớ. Sứ điệp mà ông phải giảng thì Ngài trao cho ông dưới hình thức một quyển
sách, và Ngài truyền bảo ông phải ăn sách ấy cũng như Giăng vậy (Khải Huyền
10:9). Sách ngọt ngào trong miệng ông, dường như có nghĩa rằng ông thấy vui
mừng vì được làm sứ giả của Ðức Chúa Trời, mặc dầu ông phải rao truyền một sứ
điệp khổ nạn. Ăn quyển sách, hoặc ăn thật hay chỉ ăn trong sự hiện thấy, thì có
nghĩa là hoàn toàn tiêu hóa nội dung quyển sách đến nỗi sứ điệp của nó trở
thành một phần của chính mình ông. Ở 3:17-21, Ðức Chúa Trời dường như đặt trên
vai Ê-xê-chi-ên cái trách nhiệm về số phận của dân tộc ông; ông có trung tín
truyền giảng sứ điệp của Ðức Chúa Trời, thì mới tránh khỏi trách nhiệm. Ông
cũng được cảnh cáo rằng thỉnh thoảng Ðức Chúa Trời sẽ bắt ông làm thinh (3:26;
24:27; 33:22), cốt để khiến ông cẩn thận, chỉ nói theo như Ngài truyền bảo, chớ
không tỏ bày ý tưởng riêng của mình.
Ðoạn 4, 5, 6, 7 -- Tượng trưng cuộc vây hãm
thành Giê-ru-sa-lem
Ðoàn phu tù đang hy vọng sớm
được trở về Giê-ru-sa-lem; nhưng đây, trong bài giảng đầu tiên, ông linh động
cảnh cáo họ rằng thành Giê-ru-sa-lem sắp bị phá hủy, chẳng bao lâu sẽ có những
phu tù khác nhập bọn với họ, và thời kỳ lưu đày của họ sẽ kéo dài rất ít là 40
năm. Có lẽ 40 năm là con số chẵn, chỉ tỏ một thế hệ. Lúc nầy (592 T.C.), một số
phu tù đã ở đó 14 năm. 6 năm sau, thành Giê-ru-sa-lem bị thiêu hủy. Và kể từ
ngày ấy, cuộc lưu đày còn kéo dài 50 năm nữa (586-536 T.C.).
Về số 390 năm tội lỗi của dân
Y-sơ-ra-ên (4:5), thì bản Septante dịch là 190 năm, tức là suýt soát khoảng từ
721 đến 536 T.C.. Nếu đúng là 390 năm, thì 200 năm thêm vào sẽ kéo dài thời
gian tới thời kỳ đế quốc Hy-lạp của A-lịch-sơn đại đế, trong khi chinh phục các
xứ, vua nầy đã tỏ ra rất trọng vọng hết thảy người Do-thái. Có người nghĩ rằng
430 năm (390+40) là thời gian kiều ngụ tại Ai-cập (Xuất Ê-díp-tô ký 12:40), cốt
để tượng trưng cho một cuộc lưu đày thứ hai, giống như vậy.
Ðể làm dấu hiệu về nạn đói
kém, Ê-xê-chi-ên đã ăn một thứ bánh kinh tởm làm bằng ngũ cốc, mỗi ngày ăn
chừng 280 gờ-ram, và uống chừng một lít nước; bánh ấy nướng bằng phân bò (thường
dùng làm nhiên liệu). Suốt cả thời kỳ vây hãm Giê-ru- sa-lem, ông nằm nghiêng
một bên, hoặc luôn luôn hoặc một phần lớn mỗi ngày; nằm như vậy và ăn uống như
thời đói kém đó, thì bực bội lắm.
Ðoạn 5.-- Khi cuộc vây hãm đã dứt, để tượng trưng thêm cho số phận
dân chúng Giê- ru-sa-lem, Ðức Chúa Trời truyền lịnh cho Ê-xê-chi-ên cắt tóc,
cạo râu, đốt một phần, đánh một phần bằng gươm, còn thì rải ra theo gió bốn
phương.
Ðoạn 6, 7.-- Một bản ai ca về đất Y-sơ-ra-ên bị hủy phá và hoang vu;
ý chính là bởi sự sửa phạt kinh khủng nầy, dân Do-thái sẽ biết Giê-hô-va là Ðức
Chúa Trời.
Ðoạn 8, 9, 10, 11 -- Trong sự hiện thấy, Ê-xê-chi-ên về thăm Giê-ru-sa-lem
Nhằm tháng 9, năm 591 T.C.,
tức là 1 năm, 2 tháng sau khi ông được kêu gọi, vào khoảng ông đã chấm dứt cuộc
tượng trưng vây hãm thành Giê-ru-sa-lem. Trong trạng thái xuất thần nhập hóa (extase), ông được chở về thành
Giê-ru-sa-lem, tại đó Ðức Chúa Trời chỉ cho ông thấy những cuộc thờ lạy hình
tượng gớm ghiếc cử hành ngay trong Ðền thờ. "Hình tượng sự ghen tương"
(8:3) có lẽ là tà thần Astarte (thần
Vệ nữ của người Sy-ri). Sự thờ lạy thú vật lén lút (8:10) có lẽ là bắt chước
người Ai-cập. Dẫn đầu sự thờ lạy nầy là Gia-a-xa-nia (câu 11), con trai
Sa-phan, thủ lãnh cuộc cải cách dưới đời trị vì của Giô-si-a (II Các vua 22:8).
Anh em của hắn, tên là A-hi-cam và Ghê-ma-ria, vốn là thiết hữu của Giê-rê-mi
(Giê-rê-mi 26:24; 36:10, 25) ngay khi chính Giê-rê-mi kêu la gớm ghiếc hành
động phạm thánh (sacrilège) đó. Tham-mu
(8:14) là tà thần Adonis của người
Ba-by-lôn, chồng của thần vệ nữ Sy-ri; sự thờ lạy nó cử hành với những cuộc say
sưa, phóng túng, vô đạo. Như vậy, dầu
hết lời cảnh cáo nầy đến lời cảnh cáo khác, hết sự hình phạt nầy, đến sự hình
phạt khác, nước Giu-đa (xưa kia hùng mạnh, nhưng bây giờ đã gần tiêu diệt) vẫn
cứ sa ngã càng ngày càng thấp trong vòng thờ lạy hình tượng nhơ nhuốc. Ðó là
một mùi hôi thúi mà mũi Ðức Chúa Trời không chịu được nữa.
Ðoạn 9.-- Sự hiện thấy về cuộc tàn sát những kẻ thờ lạy hình tượng
ở Giê-ru-sa-lem, trừ ra những kẻ trung tín có mang dấu của vị thiên sứ kiêm thư
ký (câu 3, 4).
Ðoạn 10.-- Các chê-ru-bin ở đoạn 1 lại hiện ra, chỉ huy cuộc hủy
phá và tàn sát thành Giê-ru-sa-lem.
Ðoạn 11.-- Sự hiện thấy về những kẻ phu tù được khôi phục trong
tương lai sau khi bị hạ xuống, được tẩy sạch và được chữa khỏi thờ lạy hình
tượng (câu 10, 12).
Làm xong sứ mạng rồi,
Ê-xê-chi-ên được xe chê-ru-bin chở về nhà ở nơi bị lưu đày, rồi ông thuật lại
mọi sự cho các trưởng lão nghe (8:1; 11:25).
Ðoạn 12 -- Ê-xê-chi-ên dọn đồ đạc trong nhà
Ðây là một hành động tượng
trưng khác để càng nhấn mạnh rằng nhân dân thành Giê-ru-sa-lem sắp bị bắt làm
phu tù. Nó chứa một lời tiên tri tỉ mỉ lạ lùng về số phận Sê-đê-kia: Ông bí mật
chạy trốn, bị bắt và đem qua Ba-by-lôn mà không thấy chi hết (câu 10, 12, 13). 5
năm sau, việc xảy ra đúng như lời Ê-xê-chi-ên đã nói: Sê-đê-kia toan bí mật
thoát thân, nhưng bị bắt, bị móc mắt, và bị đem qua Ba-by-lôn (Giê-rê-mi
52:7-11).
Ðoạn 13 -- Các tiên tri giả
Có rất nhiều tiên tri giả tại
Giê-ru-sa-lem và ở giữa vòng các phu tù (xem Giê-rê-mi 23 và 29). Chúng đem hy
vọng giả dối phỉnh gạt nhân dân, chẳng khác chi xây tường mà chẳng có vữa. "Gối"
(câu 18) và "khăn" (câu 21) chắc đã dùng trong một thứ nghi lễ yêu
thuật.
Ðoạn 14 -- Những kẻ cầu hỏi giả hình
Ðáp lại phái đoàn của những kẻ
say mến hình tượng, Ðức Chúa Trời không dùng lời, nhưng Ngài tiêu diệt
Y-sơ-ra-ên đang thờ hình tượng một cách mau lẹ và kinh khiếp. Ngài không vì cớ
một số ít người trung tín mà dung tha nó nữa. Có lẽ vì cớ Ða-ni-ên (câu 14),
nên cho tới lúc nầy, Nê-bu-cát-nết-sa còn dung tha Giê-ru-sa-lem.
Ðoạn 15 -- Thí dụ về cây nho
Không thể lấy trái, hoặc lấy
gỗ, chỉ dùng làm củi thôi. Cũng một thể ấy, Giê-ru-sa-lem không dùng làm chi
được nữa, chỉ để thiêu hủy đi.
Ðoạn 16 -- Thí dụ về người vợ ngoại tình
Ðoạn nầy mô tả dân Y-sơ-ra-ên
thờ lạy hình tượng rất linh động. Ðây dùng hình bóng một tân phụ được chồng yêu
dấu, phong làm hoàng hậu, ban cho lụa là, da hải cẩu và mọi vật tốt đẹp. Nhưng
rồi nàng mãi dâm với mỗi người đờn ông đi qua, chẳng những không lấy tiền, song
còn trả tiền cho các bạn tình của mình nữa. Thậm chí làm cho Sô-đôm và Sa-ma-ri
phải hổ thẹn. hãy chú ý, ngay trong cảnh trạng nầy, vẫn có lời hứa lập giao ước
đời đời (câu 60-63).
Ðoạn 17 -- Thí dụ về hai con chim ưng
Con chim ưng thứ nhứt là vua Ba-by-lôn. "Nhành
non rất cao" (câu 4) là vua Giê-hô-gia-kin đã bị bắt qua Ba-by-lôn (II Các
vua 24:11-16) 6 năm trước khi phán thí dụ nầy. "Giống của đất ấy"
(câu 5, 13) được đem trồng (câu 5) là Sê-đê-kia (II Các vua 24:17). Còn chim
ưng thứ hai (câu 7) là vua Ai-cập mà Sê-đê-kia nương cậy. Vì cớ phản bội,
Sê-đê-kia sẽ bị đem qua Ba-by-lôn, bị hình phạt và chết ở đó (câu 13-21). Việc
nầy xảy ra 5 năm sau, đúng như Ê-xê-chi-ên đã nói tiên tri từ trước (12:10-16).
"Chồi non" (câu 22-24) mà Ðức Chúa Trời trồng về sau, trong nhà vua
Ða-vít được khôi phục, đã được ứng nghiệm trong Ðấng Mê-si.
Ðoạn 18 -- "Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết"
Trong các sách tiên tri, dân nói rất nhiều rằng sự
lưu đày của họ là do tội lỗi chồng chất của những thế hệ trước. Thế hệ bị lưu
đày bỏ qua cái thực sự rằng họ "ăn ở càng xấu hơn tổ phụ mình"
(Giê-rê-mi 7:26), và bây giờ cố đổ lỗi cho ông cha. Ðại ý của đoạn nầy là Ðức
Chúa Trời phán xét mỗi người tùy theo hành vi riêng của họ; hơn nữa, hạnh kiểm
sau chót của một người sẽ định đoạt địa vị thật của người ấy trước mặt Ðức Chúa
Trời (câu 21-24). Ðó là một lời thiết tha kêu gọi kẻ ác hãy ăn năn (câu 30-32).
Ðoạn 19 -- Bản ai ca về ngôi của Ða-vít sụp đổ
Dùng hình bóng của một sư tử cái. Nhà Ða-vít xưa
kia cao đại và hùng cường, bây giờ bị lật đổ. Sư tử con thứ nhứt là
Giô-a-cha (Sa-lum) bị bắt qua Ai-cập (II Các vua 23:31-34). Sư tử con thứ hai
(câu 5) là Giê-hô-gia-kin hoặc Sê-đê-kia, cả hai đã bị bắt qua Ba-by-lôn (II
Các vua 24:8-25:7).
Ðoạn 20:1-44 -- Nhắc lại dân Y-sơ-ra-ên thờ
lạy hình tượng
Hết thế hệ nầy tới thế hệ
khác, họ đã dầm mình trong sự thờ lạy hình tượng dơ bẩn. Hãy chú ý lời tiên tri
về sự khôi phục (xem ở dưới đoạn 37).
Ðoạn 21 -- Bài ca về thanh gươm
Thanh gươm sắp rút ra khỏi vỏ
để đánh Giê-ru-sa-lem và Am-môn. "Phía Nam" (câu 2) là xứ Giu-đa. Nê-bu-cát-nết-sa
được hình dung là đang lưỡng lự, không biết nên tiến đánh nơi nào trước,
Giê-ru-sa-lem hay là Am-môn (câu 26). Ông đã chọn Giê-ru-sa-lem, và tấn công
Am-môn 5 năm sau. "Cho đến chừng nào Ðấng đáng được sẽ đến" (câu 32),
nghĩa là sự lật đổ ngôi vua Sê-đê-kia sẽ kết liễu nước của Ða-vít cho đến khi
Ðấng Mê-si hiện ra (34:23-24; 37:24; Giê-rê-mi 23:5, 6).
Ðoạn 22 -- Các tội lỗi của Giê-ru-sa-lem
Nhiều lần Ê-xê-chi-ên kê khai
rõ ràng các tội lỗi của Giê-ru-sa-lem: Tự làm ô uế bởi hình tượng, đổ huyết, ăn
nuốt linh hồn, ức hiếp trẻ mồ côi cha và đờn bà góa, khinh cha mẹ, phạm ngày
yên nghỉ, cho vay nặng lãi (lời), vu cáo. trộm cắp, tà dâm hỗn loạn; còn các
quan trưởng, thầy tế lễ và tiên tri thì ví như muông sói, tham lam, lợi lộc,
bất nghĩa.
Ðoạn 23 -- Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba
Hai chị em dâm đãng không hề
chán. Ðây là một thí dụ về tội thờ hình tượng của dân Y-sơ-ra-ên. Ô-hô-la là
Sa-ma-ri, còn Ô-hô-li-ba là Giê-ru-sa-lem. Cả hai đã phạm tội tà dâm cho tới
lúc già nua. Cả hai bị tiêu diệt bởi các tình nhơn bất chánh của chúng. Nhiều
lần tình vợ chồng được dùng để diễn tả mối liên quan giữa Ðức Chúa Trời và dân
Ngài (xem ở dưới đoạn 16). Tội ngoại tình hỗn loạn chắc đã lan tràn rất rộng
(16:32; 18:6, 11, 15; 22:11; 23:43; Giê-rê-mi 5:7, 8; 7:9; 9:2; 23:10, 14;
29:23).
Ðoạn 24 -- Cái nồi sôi sục sục
Tượng trưng cho sự hủy phá
thành Giê-ru-sa-lem nay đã gần rồi. Thịt lấy từ trong nồi đang sôi ra chỉ về
các phu tù. Ten rét dính trên nồi chỉ về sự đổ máu và việc vô đạo ở trong
thành. Nồi trống rỗng lại đặt trên lửa chỉ về thành bị đốt cháy.
Vợ Ê-xê-chi-ên qua đời (câu
15-24). Việc nầy xảy ra đúng ngày Giê-ru-sa-lem bắt đầu bị vây hãm (câu 1, 18;
II Các vua 25:1). Ðó là một dấu hiệu xé lòng đoàn phu tù, tỏ ra rằng thành
Giê-ru-sa-lem yêu dấu của họ, là sự kiêu hãnh và vinh quang của nước họ, bấy
giờ bị cất đi khỏi họ. Ðó là một điều mà họ không tin rằng có thể xảy ra. Ê-xê-chi-ên
bắt buộc phải im lặng cho tới ba năm sau, khi được tin thành ấy đã bị thiêu hủy
(câu 27; 33:21, 22).
Ðoạn 25
-- Am-môn, Mô-áp, Ê-đôm, Phi-li-tin
Bốn nước nầy là láng giềng gần
nhứt của nước Giu-đa ở các phía Ðông, Nam và Tây. Ấy là các nước thù nghịch,
lấy làm khoái trá khi nước Giu-đa bị quân Ba-by-lôn tàn diệt. Ở đây,
Ê-xê-chi-ên dự ngôn cho chúng cùng một số phận như vậy, y như Giê-rê-mi đã dự
ngôn (Giê-rê-mi 27:1-7). Nê-bu-cát-nết-sa khắc phục người Phi-li-tin khi chiếm
lấy nước Giu-đa, và bốn năm sau, đã xâm lăng Am-môn, Mô-áp và Ê-đôm.
Ðoạn 26, 27, 28 -- Thành Ty-rơ, các sự hiện
thấy trong năm 586 T.C.
Những sự hiện thấy về số phận
thành Ty-rơ nầy đã được ban cho Ê-xê-chi-ên cùng một năm thành Giê-ru-sa-lem
sụp đổ, nghĩa là năm thứ 11 (26:1). Không có ghi tháng, nhưng là sau khi
Giê-ru-sa-lem "trở nên hoang vu" (26:2), nhằm tháng 4 (Giê- rê-mi
52:5, 6) và đang khi thành Ty-rơ chưa bị Nê-bu-cát-nết-sa tiến đánh (26:7 --
"sẽ đem").
Ðoạn 26.-- Một lời tiên tri về thành Ty-rơ bị Nê-bu-cát-nết-sa vây
hãm và bị hoang vu vĩnh viễn. Năm sau (585 T.C.), Nê-bu-cát-nết-sa vây hãm
Ty-rơ. Ông mất 13 năm mới chiếm được thành nầy (585-573 T.C.).
Ty-rơ ở cách Na-xa-rét 60 dặm
về phía Tây bắc, thật ra là hai thành, một ở trên hòn đảo, còn một ở trên đại
lục, trong một đồng bằng phì nhiêu và có nhiều sông ngòi, ở chơn phía Tây của
dãy núi Li-ban, cách cửa sông Leontes
5 dặm về phía Nam. Ty-rơ là một cường quốc hàng hải của thế giới thượng cổ, lên
tới tuyệt điểm từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 6 T.C.; nó có thuộc địa ở duyên
hải Bắc, Tây Phi-châu, ở Tây-ban- nha, ở Anh quốc, và kiểm soát nền thương mại
Ðịa-trung-hải; hàng hóa của mọi nước đi qua hải cảng của nó. Thành nầy nổi
tiếng vì sự huy hoàng và giàu có kinh khủng. Vì bị Nê-bu-cát-nết-sa khắc phục,
nó không còn là một cường quốc độc lập nữa. Về sau, nó bị khắc phục bởi quân
Ba-tư, rồi bởi A-lịch-sơn đại đế (năm 332 T.C.). Vua nầy đã chiếm nó bằng cách
đắp một con đê rộng nửa dặm, từ đại lục tới hòn đảo. Nó không hề khôi phục được
vinh quang thời xưa, và trải bao nhiêu thế kỷ, chỉ còn là "vầng đá sạch
láng,... làm một chỗ người ta phơi lưới" (26:4, 5, 14). Lạ lùng thay, đã
ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-xê-chi-ên rằng nó "không có dân ở nữa"
(26:14, 20; 27:36; 28:29)!
Ðoạn 27.-- Ty-rơ, nữ chúa Ðịa-trung-hải, được mô tả bằng hình bóng
một chiếc tàu oai hùng, đẹp đẽ vô song, chở hàng hóa và bửu vật của các nước, nhưng
sắp chìm.
Ðoạn 28:1-19.-- Lật đổ vua kiêu hãnh của thành Ty-rơ; ngự ngai trên hòn
đảo không ai tới gần và chiếm được, vua nầy vẫn chế giễu mọi sự hăm dọa cảnh an
ninh của mình.
Ðoạn 28:20-24.-- Lật đổ thành Si-đôn, ở cách Ty-rơ 20 dặm về phía
Bắc. Nó bị Nê- bu-cát-nết-sa chiếm cùng một lúc với thành Ty-rơ.
Ðoạn 28: 25-26.-- Nước Y-sơ-ra-ên được khôi phục sau khi các nước
lân cận nghịch thù nó đã biến mất.
Ðoạn 29,
30, 31, 32 -- Ai-cập, sáu sự
hiện thấy
Dự ngôn Nê-bu-cát-nết-sa sẽ
xâm lăng Ai-cập, và Ai-cập sẽ trở thành một nước kém cỏi suốt cả tương lai.
Nê-bu-cát-nết-sa xâm lăng và
cướp phá Ai-cập năm 572 và 568 T.C.. Ai-cập không bao giờ khôi phục được vinh
quang thời xưa, và từ đó đến nay, chỉ đóng một vai thấp kém trong lịch sử thế
giới. Thật đã ứng nghiệm lời Ê-xê-chi-ên nói tiên tri rằng nó "sẽ là một
nước yếu hèn hơn hết các nước" (29:15).
29:1-16.-- Tháng giêng dương lịch, năm 586 T.C.. 6 tháng trước khi
Giê-ru-sa-lem sụp đổ. 15 năm trước khi Nê-bu-cát-nết-sa xâm lăng Ai-cập. Trong
sự hiện thấy nầy, Ai-cập được hình dung là một con cá sấu, cũng như Ty-rơ đã
được hình dung là một chiếc tàu ở đoạn 27. Con cá sấu, vua sông Ni-lơ, là một
thần của Ai-cập. "40 năm" Ai-cập làm phu tù và bị hoang vu (câu 11,
12). Ấy là gần 40 năm, từ lúc Nê-bu-cát-nết-sa khắc phục Ai-cập cho tới khi đế
quốc Ba-tư dấy lên (536 T.C.) và cho phép mọi dân bị bắt làm phu tù được trở về
cố hương.
29:17-30:19.-- Tháng tư dương lịch, năm 570 T.C.; 16 năm sau khi thành
Giê-ru-sa-lem sụp đổ.
Sự hiện thấy nầy được ban cho
Ê-xê-chi-ên lâu năm sau 5 sự hiện thấy kia và gần lúc Nê-bu-cát-nết-sa tiến vào
Ai-cập; nhưng nó được đặt vào đây cho vấn đề được thống nhứt. "Chưa được
tiền công nào... cho đạo binh mình" (29:18). Nê-bu-cát-nết-sa, tôi tớ mà
Ðức Chúa Trời dùng để hình phạt các dân, đã vây hãm thành Ty-rơ suốt 13 năm
(585-573 T.C.). So với thời gian vây hãm, thì chiến lợi phẩm đã làm cho họ thất
vọng, vì rất nhiều người dân đã đem của cải trốn mất. Nhưng bây giờ tại Ai-cập,
ông sẽ được đền bù (câu 20). "Trong đất Ê-díp-tô sẽ không có vua nữa"
(30:13), nghĩa là không có người bổn xứ cầm quyền cai trị quan trọng.
Ðoạn 30:20-26.-- Tháng 4 dương lịch năm 586 T.C., 3 tháng trước
khi thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ. "Ðã bẻ" (câu 21) có lẽ chỉ về đạo
quân của Pha-ra-ôn bị thất trận (Giê-rê-mi 37:5-9).
Ðoạn 31.-- Tháng 6 dương lịch, năm 586 T.C.. 1 tháng trước khi
thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Ai-cập được cảnh cáo hãy chú ý đến số phận của
A-si-ri, vốn hùng cường hơn Ai-cập, nhưng đã suy vong vì tay quân Ba-by-lôn.
Ðoạn 32:1-16.-- Tháng 3 dương lịch, năm 584 T.C.. 1 năm, 8 tháng trước
khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Một bức tranh mô tả Ai-cập và các đồng bạn của nó ở
cõi chết.
Ðoạn 33:1-20 -- Sự công bình của Ðức Chúa Trời
Lặp lại và thêm vào ý tưởng đã
giải tỏ ở 3:17-21 và 18:5-29.
Ðoạn 33:21-33 -- Hay tin thành Giê-ru-sa-lem
sụp đổ
Một năm rưỡi sau khi thành nầy
sụp đổ (xem niên biểu ở dưới 1:1-3). Ê-xê-chi-ên đã im lặng từ ngày cuộc vây
hãm bắt đầu, tức là một khoảng 3 năm (24:1, 26, 27; 33:22). Những sự hiện thấy
từ đoạn 26 đến đoạn 31 (mà phần nhiều đã được ban cho ông trong khoảng 3 năm
nầy và đều nghịch cùng Ty-rơ và Ai-cập), chắc đã được viết ra, chớ không phải
nói ra. sau khi nhận được tin ấy, lời nói đầu tiên của Ê-xê-chi-ên là số ít
người gian ác còn sót lại tại nước Giu-đa sẽ bị tuyệt diệt (câu 23-29). 5 năm
sau, Nê-bu-cát-nết-sa bắt thêm 745 phu tù (Giê-rê-mi 52:30).
Rồi tới một lời chú thích rằng
Ê-xê-chi-ên được đoàn phu tù quí chuộng (câu 30-33), vì lời giảng của ông hấp
dẫn họ; nhưng họ vẫn chẳng ăn năn.
Ðoạn 34 -- Một lời tố cáo những kẻ chăn dân
Y-sơ-ra-ên
Ðây trực tiếp đổ trách nhiệm
về dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày cho các vua và thầy tế lễ tham lam, tàn ác, đã đục
khoét dân chúng cùng làm cho họ lầm lạc. Ðối với bối cảnh, Ê-xê-chi-ên được sự
hiện thấy về Ðấng chăn dân Ðức Chúa Trời trong tương lai, tức là Ðấng Mê-si hầu
đến, phát xuất từ Ða-vít (câu 15, 23, 24). Dưới sự chăn dắt của Ngài, họ sẽ
không bao giờ phải đau khổ nữa, và sẽ có "cơn mưa của phước lành"
(câu 26).
Ðoạn 35 -- Số phận của Ê-đôm
Nhân dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên
lúc nầy đã bị bắt đi, người Ê-đôm bèn nghĩ rằng đây là một cơ hội để chiếm lấy
xứ sở của họ (câu 10; 36:2, 5). Nhưng 3 năm sau, Ê-đôm cũng chung số phận. Xem
dưới sách Áp-đia.
Ðoạn 36 -- Ðất Y-sơ-ra-ên sẽ lại có người ở
Dầu lúc nầy nó hoang vu, nhưng
một ngày kia, sẽ nên giống như vườn Ê-đen (câu 35), có người Giu-đa và người
Y-sơ-ra-ên ở đông đúc (câu 10, 31). Ấy không phải vì cớ họ, nhưng để Danh Ðức
Chúa Trời được vinh hiển (câu 23, 32).
Ðoạn 37 -- Sự hiện thấy về hài cốt
Ðây là lời dự ngôn về sự phục
sanh quốc gia của dân Y-sơ-ra-ên đang bị tản lạc, về họ trở lại cố hương, về
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên sẽ lại thống nhất dưới đời trị vì của một Vua vĩnh viễn,
gọi là "Ða-vít" (câu 24-26). Ðây là lời tiên tri rõ ràng rằng dân
Giu-đa sẽ hối cải, quay về với Ðấng Christ, như Phao-lô đã nói tiên tri ở Rô-ma
11:15, 25, 26.
Sự hiện thấy liên quan đến
"cả nhà Y-sơ-ra-ên" (câu 11-22), cả Giu-đa và Y-sơ-ra- ên. Sách
E-xơ-ra và sách Nê-hê-mi thuật lại các phu tù Giu-đa hồi hương, nhưng không nói
chi hết đến các phu tù Y-sơ-ra-ên hồi hương. Tuy nhiên, những người hồi hương
đều gọi là "Y-sơ-ra-ên: (E-xơ-ra 9:1; 10:5; Nê-hê-mi 9:2; 11:3). Ông Geikie nói rằng phần dân Y-sơ-ra-ên còn
sót đã từ A-si-ri trở về và định cư tại xứ Ga-li-lê. Nhưng ta không thể nói
rằng trong lịch sử quá khứ có gì làm ứng nghiệm lời tiên tri nầy tới một mức
vừa phải. Sự ứng nghiệm còn ở tương lai.
Người ta không đồng ý kiến về
điểm nầy: Phải giải thích những lời nầy đúng nghĩa đen và ứng dụng cho dân
Do-thái tới mức nào, và phần nào có thể làm "hình bóng" cho giao ước
Ðấng Christ về đại cương (câu 26-28). Không phải luôn luôn dễ phân biệt rõ ràng
cái gì phải hiểu theo nghĩa đen và cái gì phải hiểu theo nghĩa bóng. Thí dụ,
cuộc đại chiến của Gót và Ma-gót ở đoạn 38, 39, sẽ xảy ra sau nầy, thì dường
như không thể đánh thực sự bằng "những cung và tên, những giáo và
sào" (39:9). "Ða-vít" (37:24) không phải thật là Ða-vít, mà là
Ðấng Mê-si. Danh từ "Y-sơ-ra-ên" trong Tân Ước dầu thường dùng cho
người Do-thái, song thỉnh thoảng cũng áp dụng cho tín đồ Ðấng Christ (Ga-la-ti
6:16), và cũng có tỏ ra rằng người dân ngoại được bao hàm trong ý nghĩa ấy
(Ga-la-ti 3:7-9, 29; Rô-ma 2:28-29; 4:13-16; Phi-líp 3:3). Như vậy, sự hiện
thấy về xứ sở lại có dân ở, về quốc gia được phục hưng và vinh quang nầy dầu có
nghĩa đen rõ rệt là thích ứng lắm, song theo một phương diện, cũng có thể là
bức tranh tượng trưng cho trái đất được đổi mới; ấy cũng như sách Khải Huyền
dùng một thành đẹp đẽ trên đất làm hình bóng mô tả Thiên đàng vậy (Khải Huyền
21). các lời tiên tri trong Kinh Thánh về tương lai thường được mô tả bằng
những danh từ thông dụng đương lúc ấy. Chúng tôi nghĩ trong những khúc sách
giống như khúc sách nầy, có cả nghĩa đen và nghĩa bóng; ấy cũng như những sách
Ma-thi-ơ, đoạn 24, một vài lời của Ðức Chúa Jêsus dường như chỉ về cả sự phá
hủy thành Giê-ru-sa-lem và lúc tận thế, biến cố nầy làm hình bóng cho biến cố
kia.
Ðấng Mê-si là trung tâm các sự
hiện thấy của Ê-xê-chi-ên về tương lai dân Y-sơ-ra- ên. Ông gọi Ngài là
"Vua" (34:23, 24; 37:24, 25; 44:3; 45:7; 46:16, 17, 18; 48:21).
Ðoạn 38, 39 -- Gót và Ma-gốc
Gót là vua của xứ Ma-gốc. Ờ
Sáng thế ký 10:2, Ma-gốc, Mê-siếc, Tu-banh và Gô- me được kê khai là con của
Gia-phết, và đã sáng lập nhóm quốc gia ở phương Bắc. Ở Ê-xê-chi-ên 27:13,
Mê-siếc và Tu-banh được ghi là kẻ bán tôi mọi cho thành Ty- rơ; và đoạn 32:26
ghi chúng là những dân chuyên làm giặc cướp thời xưa. Có người tưởng rằng Rô-sơ
nghĩa là nước Nga; người khác lại cho là không biết đúng chỉ về ai. Có người
tưởng rằng Mê-siếc nghĩa là Mạc-tư-khoa (thủ đô nước Nga), hoặc Moscovie, một tên của nước Nga thời xưa,
hoặc một dân tộc gọi là Moschi mà các
bi văn A-si-ri có ghi là ở miền núi Caucase.
Lại có người cho rằng Tu-banh là Tobolsk,
một đô thị ở Tây-bá-lợi-á, hoặc một dân tộc gọi là Tibareni, ở bờ Ðông-nam của Hắc-hải. Có người cho rằng Gô-me là dân
Cimmériens từ phương Bắc tràn vào
miền núi Caucase đương thời đế quốc
A-si-ri và chiếm nhiều nơi thuộc Tiểu-Á-tế-á, nhưng rồi bị đánh lui. Còn
Tô-ga-ma thì người ta cho là xứ [1]c-mê-ni. Bất cứ các
dân tộc nầy thật là ai, Ê-xê-chi-ên cũng nói rằng họ "ở phía cực Bắc"
(38:6, 15; 39:2), và ta biết khá chắc chắn rằng ông có ý nói đến những dân tộc
ở bên kia dãy núi Caucase. Nhìn qua
bản đồ, ta cũng thấy rõ rằng trong trí óc ông nghĩ đến phần thế giới ngày nay
gọi là nước Nga. Các dân tộc nầy vốn dã man, và trong cổ văn, họ được gọi chung
là người Sy-the (Cô-lô-se 3:11). Vào khoảng Ê-xê-chi-ên sanh ra, miền Tây-nam
Á-châu bị những đoàn quân Sy-the đông đảo từ phương Bắc tràn vào và khủng bố
(xem "Cuộc xâm lăng của người Sy-the" ở dưới Giê-rê-mi 4). Những đồng
bạn cao tuổi hơn Ê-xê-chi-ên còn nhớ rõ những nỗi khủng khiếp do chúng gây nên.
Trong hai đoạn nầy,
Ê-xê-chi-ên dự ngôn một cuộc xâm lăng khác của người Sy-the, hung bạo hơn bội
phần: Chúng liên minh với các dân tộc ở Ðông-phương (38:5) mà tràn vào Ðất
Thánh, đánh dân Y-sơ-ra-ên mới được khôi phục. Biến cố nầy xảy ra "trong
những năm sau rốt" (38:8), hình như đương thời kỳ của Ðấng Mê-si. Nhờ Ðức
Chúa Trời giúp đỡ dân Ngài, chúng sẽ bị thảm bại đến nỗi khí giới của chúng đủ
dùng làm củi trong 7 năm (39:9), và phải mất 7 tháng mới chôn hết tử thi của
chúng (39:14).
Có người giải thích lời dự
ngôn nầy theo nghĩa đen là cuộc tấn công hùng hậu cuối cùng của các dân ngoại
vào dân Do-thái, trong thời kỳ sau rốt. Người khác lại cho đó là hình bóng tiên
tri về sự đắc thắng cuối cùng của Nước Ðức Chúa Trời trên các lực lượng của tội
ác.
Trong sách Khải Huyền, những
chữ "Gót" và "Ma-gốc"(1)
dùng để chỉ về mọi nước dự phần cuộc tấn công hung hăng cuối cùng của quỉ
Sa-tan vào dân Ðức Chúa Trời (Khải Huyền 20:7-10).
Ðoạn 40 đến 48 -- Ðền thờ được xây lại
Tháng 4 dương lịch, năm 572
T.C.. Vào khoảng Lễ Vượt Qua. 14 năm sau khi thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Ê-xê-chi-ên
trở về thăm Giê-ru-sa-lem lần thứ hai trong sự hiện thấy; lần thứ nhứt xảy ra
19 năm trước (8:1-13), để thi hành sứ mạng tuyên án hủy diệt thành ấy. Lần nầy
cốt để chỉ rõ sự trùng tu Giê-ru-sa-lem, phần lớn xác định các chi tiết của Ðền
thờ.
Sự hiện thấy nầy chẳng được
ứng nghiệm khi dân Do-thái từ Ba-by-lôn trở về cố hương. Rõ ràng lắm, nó dự
ngôn về thời kỳ Ðấng Mê-si.
Có người giải thích sự hiện
thấy nầy theo nghĩa đen rằng: Một ngày kia, 12 chi phái lại sẽ ở trong xứ, sẽ
được phân chia xứ đúng như có tỏ đây, và Ðền thờ sẽ được xây cất lại đúng như
mọi đặc điểm minh xác đây, cũng sẽ có dâng thú vật làm của lễ thật. Họ gọi Ðền
thờ nầy là "Ðền thờ của thời kỳ 1000 năm hòa bình."
Người khác lại giải thích theo
nghĩa bóng, cho là một tỉ dụ nói trước về cả kỷ nguyên đạo Ðấng Christ, dưới
hình bóng một quốc gia được phục sanh, trùng hưng và vinh hiển.
Dầu có nhiều sự đổi khác,
nhưng về đại thể, Ðền thờ trong sự hiện thấy của Ê-xê- chi-ên, với những hành
lang, cách sắp đặt và bày biện, theo đúng kiểu mẫu tổng quát của Ðền thờ do
Sa-lô-môn xây cất.
Ðức Chúa Trời "sẽ ở đời
đời" trong Ðền thờ nầy (43:7). Lời lẽ nầy hầu như không thể xác định là
một Ðền thờ thật bằng vật chất. Nó chắc phải chỉ bóng về một cái gì, vì trong
sách Giăng 4:21-24, Ðức Chúa Jêsus đã bãi bỏ sự thờ phượng trong Ðền thờ, và ở
trên trời, sẽ chẳng có Ðền thờ (Khải Huyền 21:22).
Các của lễ (45:9-46:24). ta tự
hỏi tại sao phải có các của lễ dưới đời trị vì của "Vua"? Thơ
Hê-bơ-rơ tuyên bố rõ rằng các của lễ ấy đã được ứng nghiệm và bị bãi bỏ bởi sự
chết của Ðấng Christ một lần đủ cả. Những người nghĩ Ðền thờ nầy thật là một
"Ðền thờ của thời kỳ 1000 năm hòa bình" thì cho rằng dân Do-thái sẽ
cứ dâng các sanh tế nầy trong khi chưa hối cải, hoặc các của lễ cốt để kỷ niệm
sự chết của Ðấng Christ.
Dòng sông ban sự sống (47:1-12). Ðây là một trong
những khúc vĩ đại nhứt của sách Ê-xê-chi-ên. Giô-ên và Xa-cha-ri cũng nói đến
giòng sông nầy (Giô-ên 3:18; Xa-cha-ri 14:8). Dường như đây mô tả "sông
nước sự sống" ở Thiên đàng (Khải Huyền 22:1-2). Bất cứ dòng nước nầy có
thể ứng dụng theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen thể nào, nhưng về đại cương, không cần
phải gò bó chút chi, ta chắc cũng có thể coi nó là một bức tranh kỳ diệu mô tả
các ảnh hưởng tốt lành của Ðấng Christ phát xuất từ Giê-ru-sa-lem, thành một
dòng sông càng ngày càng sâu rộng, lan ra khắp thế giới, ban phước cho muôn dân
bởi hiệu lực truyền sự sống, mãi tới đời đời vô cùng trên Thiên đàng.
Cửa
phía Ðông của Ðền thờ phải đóng luôn, chỉ mở cho Vua mà thôi (44:1-3). |
Ðan A-se |
Khu thánh dành cho Thành, Ðền thờ, có
thầy tế lễ và người Lê-vi, sẽ ở gần trung tâm của xứ và tứ phía có đất đai
của Vua (45:1-8). |
Nép-ta-li Ma-na-se Ép-ra-im Ru-bên Giu-đa |
Biên
giới của xứ và vị trí của các chi phái (47:13-48:29). Xứ không rộng lớn bằng
nước của Ða-vít. Về đại cương, nó là phần nửa phía Nam của bờ phía Ðông
Ðịa-trung-hải, chừng 40 dặm từ Bắc tới Nam, và đổ đồng chừng 100 dặm từ Ðông
tới Tây. Các chi phái không được sắp đặt như hồi nguyên thủy, nhưng như có tỏ
ra ở đây. |
Ðền thờ Vua Vua Thành Bên-gia-min Si-mê-ôn Y-sa-ca Sa-bu-lôn Gát |
Thành 48:30-35) rộng
chừng 20 cây số vuông. Một phần giống như thành Giê-ru-sa- lem mới (Khải
Huyền 21). Ðây là nơi ở của Ðức Chúa Trời (câu 35). |
|