Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 36

Cảm Tạ Chúa Ban Cho Con Đường Cứu Rỗi

(Thank God for Providing a Way of Salvation)

Giăng 3:12-16

www.vietnamesehope.org

 

 

“Ví bằng ta nói với các ngươi những việc thuộc về đất, các ngươi còn chẳng tin thay; huống chi ta nói những việc thuộc về trời, thì các ngươi tin sao được? 13 Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con người vốn ở trên trời. 14 Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15 hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. 16 Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

(I have spoken to you of earthly things and you do not believe; how then will you believe if I speak of heavenly things? 13 No one has ever gone into heaven except the one who came from heaven—the Son of Man. 14 Just as Moses lifted up the snake in the wilderness, so the Son of Man must be lifted up, 15 that everyone who believes may have eternal life in him.” 16 For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.)

 

 

I. Con Người Có Giới Hạn

 

Theo lẽ thông thường thì hầu hết ai trong chúng ta cũng đều ý thức có sự hiện hữu của một Đấng Sáng Tạo Quyền Năng và Tối Cao, cho dù không biết rõ Ngài là ai. Người Việt chúng ta gọi Đấng đó là “ông Trời, hay ông Thiên,” là Đấng đã dựng nên muôn loài và mọi vật ở trên trời và dưới đất. Phần trên trời thì qúa vĩ đại, mênh mông mà trí óc con người không thể thấu hiểu hết được, nhưng còn phần dưới đất thì có lẽ không ai trong chúng ta từ chối rằng loài người là loài được Đấng Sáng Tạo ban cho có trí óc thông minh hơn tất cả mọi loài vật khác. Con người không có sức mạnh như con gấu hay con voi, nhưng thông minh và có thể làm bẫy bắt được gấu và voi. Con người không có thể bay cao như những loài chim, nhưng họ có thể chế ra những chiếc máy bay khổng lồ, bay cao và nhanh hơn tất cả các loài chim, mà còn mang theo cả trăm người ở trong đó. Con người có thể không chạy nhanh như ngựa hay con beo “cheetah,” nhưng có thể chế ra những chiếc xe chạy trên 100 mph. Con người không có thể bơi lội như cá, nhưng có thể chế ra những chiếc tàu ngầm lặn sâu vào lòng biển cả. Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới thật là văn minh và tối tân qua những kỹ thuật chuyên môn do loài người chế tạo ra, từ hệ thống satellite (vệ tinh nhân tạo) là những máy dò bay ở ngoài vòng của quả điạ cầu, người ta có thể biết hay tiên đoán được khí hậu và các “meteorites” thiên thạch ở trong không trung đang vận chuyển như thế nào. Rồi đến sự phát minh của tầm kỹ thuật điện toán Internet, con người ngày nay có thể học biết và thông tin bất cứ điều gì ở trên thế gian này một cách nhanh chóng. Nếu quí vị có thắc mắc điều chi, chỉ cần đánh câu hỏi vào máy điện toán với vài chữ thôi thì hệ thống “Google” hay là “Bing” của Internet sẽ tìm ngay cho quí vị cả ngàn câu trả lời trong tíc tắc. Ngày nay với hệ thống Iphone mới ra thì quí vị cũng chẳng cần phải bấm xuống một chữ nào cả, chỉ nói vào cái máy Iphone thì nó sẽ trả lời ngay cho quí vị biết. Thử hỏi có loài vật nào ở trên quả địa cầu này có thể so sánh cho bằng sự thông minh của loài người được không?

 

Mặc dầu thông minh vậy, loài người vẫn có nhiều sự giới hạn cho chính mình.

a) Chẳng hạn như so sánh với thiên nhiên, thì loài người dù thông minh đến đâu đi nữa cũng phải chịu thua, bó tay trước những cơn bão tố, những trận động đất, những cơn sóng thần Tsunami, trận núi lửa, những tai họa xảy ra mà thôi. Phải chi mà loài người có thể chế ra một cái máy ngăn chận được cơn bão “Sandy” vừa đi qua miền Đông Bắc thì cứu được được biết bao nhiêu mạng sống và tránh được biết bao nhiêu sự khổ sở đã gây ra cho nhiều người.

 

b) Loài người bị giới hạn trong vòng của quả địa cầu này mà không ai có thể ra khỏi được hành tinh của mình, quá lắm là được bay lên đến mặt trăng, chứ vẫn chưa có thể bay đến được hành tinh MARS ngay bên cạnh trái đất của mình.

 

c) Dù cho thông minh đến đâu đi nữa, loài người có thể kéo dài sự sống được một chút, nhưng không thể nào tránh khỏi tử thần, vì mọi người ai rồi cũng “chết là chắc.”

 

 

II. Chúa Tự Mở Cửa Thiên Đàng

 

Loài người tuy là một loài thông minh nhất trên đất, nhưng cũng có nhiều giới hạn, nhất là sự giới hạn không thể làm gì để “đụng” đến trời được, để có thể thông hiểu được Đấng Sáng Tạo Quyền Năng và Tối Cao là ai. Trong lịch sử của nhân loại, có biết bao nhiều những tôn giáo đã cố gắng làm điều này, nhưng những câu trả lời, triết lý của họ chỉ lại là thêm những câu hỏi huyền bí lẩn quẩn, không thể giải đáp được Thượng Đế là ai. Tất cả những lý thuyết của các tôn giáo tự đặt ra để “đụng” đến trời chỉ là những “các thang gẫy đỗ,” (broken ladders) mà thôi vì loài người còn là bất toàn nữa.

 

Con người tuy thông minh nhưng có giới hạn không thể hiểu được Đấng Sáng Tạo Tối Cao là ai; Ngoại trừ khi chính Đấng quyền năng ấy tự khải thị, mở một con đường cho chúng ta thấy được Ngài, thì chúng ta mới có thể thông hiểu được Chúa, cùng với những sự mầu nhiệm quyền phép của Ngài ở trên các từng trời. Nếu phải định nghĩa 2 chữ “quyền năng” của Chúa là gì, thì câu trả lời phải là “quyền phép” của Đấng tối cao có thể làm được mọi sự, mà loài người chúng ta không thể làm được. Việc “đụng” đến trời là việc loài người không ai có thể làm được, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng thì chẳng như thế, vì Ngài làm được mọi sự để cho loài người có thể tương giao với Chúa. Khi loài người tuy thông minh nhưng không thể thấu hiểu được những việc thuộc các từng trời, thì Đức Chúa Trời là Đấng “vô sở bất năng” đã khải thị những việc thuộc về trời cho chúng ta hiểu. Sự khải thị của Chúa đã được sứ đồ Giăng nói đến trong Giăng 3:13 như sau: (No one has ever gone into heaven except the one who came from heaven—the Son of Man.) “Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời.” Câu này nói rõ đến sự bất lực của loài người “chưa hề có ai có thể lên trời,” nhưng còn nói đến sự toàn năng của Chúa “trừ ra Đấng, ấy là Con Người vốn ở trên trời xuống.”

 

 

III. Qua Con Người

 

Muốn hiểu rõ thêm về quyền năng này của Chúa, chúng ta cần ôn lại bối cảnh của đoạn Kinh Thánh này. Đây là cuộc đàm thoại giữa một người Pharasi tên là Nicôđem với Chúa Giê-xu trong một buổi tối.

 

1) Thứ nhất, người Pharasi là ai? Pharasi là một trong những phái tôn giáo quan trọng và đông nhất của người Do Thái trong thời của Chúa Giê-xu. Nhóm này thường có sự ảnh hưởng mạnh nhất của những điều liên hệ đến vấn đề đạo đức cho dân Do Thái lúc đó. Trong ban thẩm phán, Toà Công Luận, Hội Đồng của các Trưởng Tế (Sanhedrin), giống như là “Supreme Court” (Tối cao pháp viện ngày nay của nước Hoakỳ) gồm có 70 người, và chỉ những người theo phái Pharisi hay phái Sađusê đạo đức và có tiếng tốt mới được chọn vào ban này. Những người Pharisi rất đạo đức vì họ chuyên việc cầu nguyện, ăn chay, bố thí cho người nghèo và nghiêm ngặt giữ kỹ những nghi lễ của sự tinh sạch. Dưới con mắt của người đời thì người Pharisi là hạng người có lẽ được vào nước thiên đàng trước tiên bởi những việc lành của họ hay làm. Nicôđem là một trong những người Pharisi đó. Không phải chỉ là một người đạo đức mà thôi, Nicôđem còn là một kẻ lãnh đạo nữa, có quyền hành và chức tước lớn. Không phải Nicôđem có tiếng tốt thôi mà còn được nhiều người qúy trọng và kính nể. Một người mẫu đạo đức mà nhiều người đang bắt chước noi theo.

 

Nicôđem, đến với Chúa Giê-xu trong ban đêm có lẽ đang tự nghĩ với những công lao đạo đức, tiếng tốt mà mình đang cố gắng thâu lượm thì chắc có đủ điều kiện để có thể vào được nước thiên đàng, đến gần với Đấng Sáng Tạo Tối Cao được chăng? Tất cả những điều này đều là tốt lành cho cuộc sống, nhưng điều Chúa Giê-xu muốn dạy cho Nicôđem hiểu là tất cả những công đức cá nhân này không có gía trị, không có quyền năng để giúp một người có thể “đụng” được đến trời, hay được vào nước thiên đàng, được thông biết Đức Chúa Trời, vì loài người bất toàn; ngoại trừ qua chính “Con Người” (viết Hoa) vốn từ ở trên trời giáng xuống, ban cho “con đường” cứu rỗi.

 

2) Danh xưng “Con Người” ở trong Giăng 3:13 đây ám chỉ chính Cứu Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời đã một lần từ trời đến. Chúa Giê-xu có rất nhiều danh xưng: Đấng Mêsi, Con Đức Chúa Trời, Chiên Con, Ngôi Lời, Đấng Trung Bảo, Êmanuên… và một trong những danh xưng nữa đó là Ngài được gọi là “Con Người” (Son of Man). Danh xưng “Con Người” được nhắc đến 88 lần trong Kinh Thánh Tân Ước.

 

a) Danh xưng “Con Người” đầu tiên được nhắc đến đó là ở trong sách Cựu Ước Tiên Tri Đaniên 7:13-14(“In my vision at night I looked, and there before me was one like a son of man, coming with the clouds of heaven. He approached the Ancient of Days and was led into his presence. 14 He was given authority, glory and sovereign power; all nations and peoples of every language worshiped him. His dominion is an everlasting dominion that will not pass away, and his kingdom is one that will never be destroyed.) “Trong khải tượng ban đêm, tôi nhìn thấy một vị hình dáng như con người ngự đến với mây trời. Người tiến lại gần, và được đưa vào trình vị Thái Cổ. 14 Ngài trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương quốc. Mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người còn đời đời, chẳng hề chuyển dịch; vương quốc Người chẳng hề suy vong.” Đây là điều tiên tri Đaniên ngày xưa thấy được trước khi Chúa Cứu Thế Giê-xu sanh ra đời, về một Đấng Tối Cao, quyền cai trị cả muôn loài, nước Ngài vinh hiển đời đời, chẳng hề suy vong. “Con Người” đây ám chỉ đến Đấng Cứu Thế Giê-xu sẽ được Đức Chúa Trời (vị Thái Cổ, Đấng Tự Có trước muôn thưở) xức dầu, sai đi, giáng xuống từ trời, và lập vương quốc đời đời của Ngài.

 

b) Danh xưng “Con Người” đây cũng phản ảnh phần xác của Chúa Giê-xu. Trong Giăng 1:1 sứ đồ Giăng cho thấy phần linh thiêng của Đấng Cứu Thế Giê-xu chính là Đức Chúa Trời, Ngài không như các vị giáo chủ khác từ đất mà ra, nhưng nguồn gốc của Ngài từ trời mà đến, vì chính Ngài là Đức Chúa Trời – (In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God.) “Ban đầu có Ngôi Lời (Chúa Giê-xu giáng thế), Ngôi Lời ở với Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” Còn trong Giăng 1:14 sứ đồ Giăng cho thấy phần xác, phần “Con Người” của Đấng Cứu – (The Word became flesh and made his dwelling among us. We have seen his glory, the glory of the one and only Son, who came from the Father, full of grace and truth.) “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt và ngự giữa chúng ta. Chúng tôi đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, vinh quang của Con Một đến từ Đức Chúa Cha, tràn đầy ân sủng và chân lý.” Phần xác của Ngài là làm người, nghĩa là “Đức Chúa Trời” đã bằng lòng “thu nhỏ” lại qua Con Ngài, giáng xuống trần thế này, sanh ra trong lòng của một người nữ đồng trinh, để đồng hóa với loài người, và có thể cứu nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi. Con Trời đã trở nên “Con Người” để cứu loài người trở về với Đức Chúa Trời.

 

“Con Người” là con đường duy nhất từ trời giáng xuống, để dẫn chúng ta về nước thiên đàng, mà không đi vào những nẽo của sự hư mất đời đời dẫn đến hồ lửa địa ngục. Nếu phản ảnh theo những thuyết đạo ngày nay thì Chúa Giê-xu muốn dạy ở đây đó là cho dù có ai bây giờ hiểu rõ “tứ diệu đế” (sanh, tử, lão, và bệnh) và đi trọn “Eightfold paths” (8 bước chánh đáng) là nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng… theo thuyết của Phật giáo đi nữa, hay giữ trọn 5 bổn phận của đạo Hồi Giáo đó là thuộc lòng tôn chỉ của đạo, cầu nguyện mỗi ngày, bố thí cho người nghèo, ăn chay và viếng đền thờ ở Mecca mỗi năm một lần đi nữa, thì cũng không thể vào được nước thiên đàng, chỉ ngoại trừ ra một điều mà thôi, đó là phải nhờ đến “Con Người, là Đấng vốn từ trên trời giáng xuống và ban cho con đường cứu rỗi.

 

 

IV. Vì Chúa Yêu Thương

 

1) Vì loài người bất lực/bất toàn, không thể lên trời được, nên Đức Chúa Trời đã bằng lòng làm điều này, sai Con Ngài xuống. Chúa làm điều này vì Ngài yêu thương nhân loại mà sứ đồ Giăng đã nói rõ trong 3:16(For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.) “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Khi chúng ta là những loài vật đáng ghét cho Chúa, vì tổ phụ loài người đã không vâng lời Ngài, lại đi nghe theo lời dẫn dụ của ma quỉ. Khi chúng ta là hạng người đáng cho Chúa hủy diệt đời đời, thì Ngài lại yêu thương mà mở một con đường thoát qua chính Con Ngài, để loài người có thể trở về với chính Chúa. Sự yêu thương của Ngài không phải sâu đậm như vậy thôi, nhưng còn rộng lớn và vĩ đại nữa, vì ban cho cho tất cả nhân loại, không chừa một ai, từ người đầu tiên là Ađam cho đến người cuối cùng sanh ra trên đất.

 

2) Vì yêu, Đức Chúa Trời mới ban cho “Con Ngài” từ trời giáng thế, chịu chết đổ huyết trên cây thập tự gía để chuộc tội cho nhân laọi. Sự ban cho của Ngài là bằng cớ cụ thể của tình yêu Ngài cho chúng ta.

 

 

V. Ai Tin thì Được Sống

 

1) Món quà Đức Chúa Trời ban cho, mỗi người chúng ta phải tin nhận thì mới được cho chính mình. Món quà Chúa ban cho không đòi gía, không tốn tiền, nhưng chỉ tin nhận mà thôi thì được. Tin nhận Chúa có nghĩa là sao? Chúa Giê-xu nhắc lại một sự kiện trong sách Cựu Ước Dân Số Ký 21:4-9 để giải thích cho Nicôđem hiểu về tấm lòng tin nhận như thế nào – (They traveled from Mount Hor along the route to the Red Sea, to go around Edom. But the people grew impatient on the way; 5 they spoke against God and against Moses, and said, “Why have you brought us up out of Egypt to die in the wilderness? There is no bread! There is no water! And we detest this miserable food!” 6 Then the Lord sent venomous snakes among them; they bit the people and many Israelites died. 7 The people came to Moses and said, “We sinned when we spoke against the Lord and against you. Pray that the Lord will take the snakes away from us.” So Moses prayed for the people. 8 The Lord said to Moses, “Make a snake and put it up on a pole; anyone who is bitten can look at it and live.” 9 So Moses made a bronze snake and put it up on a pole. Then when anyone was bitten by a snake and looked at the bronze snake, they lived.) “Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên đi từ núi Hô-rơ về hướng Biển đỏ, đặng đi vòng theo xứ Ê-đôm; giữa đường dân sự ngã lòng. 5 Vậy, dân sự nói nghịch cùng Đức Chúa Trời và Môi-se mà rằng: Làm sao người khiến chúng tôi lên khỏi xứ Ê-díp-tô đặng chết trong đồng vắng? Vì đây không có bánh, cũng không có nước, và linh hồn chúng tôi đã ghê gớm thứ đồ ăn đạm bạc nầy. 6 Đức Giê-hô-va sai con rắn lửa đến trong dân sự, cắn dân đó đến đỗi người Y-sơ-ra-ên chết rất nhiều. 7 Dân sự bèn đến cùng Môi-se mà nói rằng: Chúng tôi có phạm tội, vì đã nói nghịch Đức Giê-hô-va và người. Hãy cầu xin Đức Giê-hô-va để Ngài khiến rắn lìa xa chúng tôi. Môi-se cầu khẩn cho dân sự. 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy làm lấy một con rắn lửa, rồi treo nó trên một cây sào. Nếu ai bị cắn và nhìn nó, thì sẽ được sống. 9 Vậy, Môi-se làm một con rắn bằng đồng, rồi treo lên một cây sào; nếu người nào đã bị rắn cắn mà nhìn con rắn bằng đồng, thì được sống.”

 

a) Đây là sự kiện về một lần dân sự Chúa đã phạm tội, nói nghịch cùng Đức Chúa Trời và người lãnh đạo của Ngài.

 

b) Đức Chúa Trời bèn sai con rắn lửa đến cắn nhiều người bị chết vì là hình phạt công bình của tội lỗi, y như lời Chúa đã nói trong Rôma 6:23(For the wages of sin is death…) “Tiền công của tội lỗi là sự chết.”

 

c) Mặc dầu vậy, Đức Chúa Trời còn thương xót họ mà ban cho một phương pháp, một con đường để cứu tất cả những ai bị rắn lửa cắn sẽ không chết, bằng cách bảo Môise làm một con rắn bằng đồng rồi treo lên cao.

 

d) Ai bị rắn lửa cắn mà dám tin lời Chúa qua Môise, nghĩa là chịu quay mặt nhìn lên “con rắn bằng đồng” treo cao trên cây sào thì sẽ được sống.

 

Chúa Giê-xu không phải là “con rắn” bằng đồng, nhưng chỉ là hình ảnh ám chỉ về sự ban cho Con Ngài giáng thế, bị treo và chịu chết trên cây thập tự gía, đổ huyết sau này để cứu chuộc nhân loại, mà ngày nay hễ bất cứ ai chịu ăn năn thống hối tội lỗi mình, quay mặt hướng về Cứu Chúa Giê-xu, tin rằng Ngài là Đấng đã đổ huyết chuộc tội cho mình thì được cứu khỏi hình phạt đời đời trong lửa địa ngục một ngày, nhưng có sự sống vĩnh cửu trong nước thiên đàng.

 

Chúng ta hết thảy đã bị con rắn lửa của tội lỗi cắn, vì “mọi người đều đã phạm tội,” và trên con đường dẫn đến sự chết đời đời, thì giờ đây Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta con đường cứu rỗi qua chính Con Ngài, đã một lần bị treo cao trên cây thập tự đổ huyết, chữa lành nọc độc của sự chết, để hễ ai dám tin nhận thì được sự sống đời đời trong nước thiên đàng một ngày. Vì thế Phaolô đã một lần lớn tiếng tuyên bố điều gì trong 1 Côrinhtô 15:55-57(Where, O death, is your victory? Where, O death, is your sting?” 56 The sting of death is sin, and the power of sin is the law. 57 But thanks be to God! He gives us the victory through our Lord Jesus Christ.) “Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết, cái nọc của mầy ở đâu? 56 Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp. 57 Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” Chúa yêu và Ngài đã ban cho Con Ngài để chết chuộc tội thế cho chúng ta. Nếu chúng ta ý thức sự giới hạn, bất toàn của mình, mà bằng lòng tin nhận Con Ngài thì sẽ sống. Đức Chúa Trời đã làm trọn phần của Ngài, bây giờ chỉ còn là phần của mỗi người chúng ta mà thôi, đó là tin nhận Chúa mà thôi.

 

Tuần tới là lễ Cảm Tạ. Đây là lúc chúng ta dừng bước lại để đếm các phước lành ông Trời đã và đang cho mình, mà dâng lời tạ ơn. Nói đến cảm tạ Trời thì có lẽ chúng ta không đếm hết được những điều mình phải cảm tạ Chúa, từ hơi thở, sự sống cho đến thực vật mỗi ngày, nhưng nếu hỏi trong mùa lễ cảm tạ này chúng ta biết ơn Chúa điều gì quí nhất? Câu trả lời phải chính là món quà mà Phaolô đã nói trong 2 Côrinhtô 9:15(Thanks be to God for his indescribable gift!) “Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!” Sự ban cho, món quà quí nhất chính là sự giáng thế của Con Trời trở nên Con Người để mở con đường cứu rỗi duy nhất cho những kẻ tin được trở về với Đức Chúa Trời là Đấng đã dựng nên chúng ta, và muốn chúng ta hưởng phước lành của Ngài đời đời trong nước thiên đàng.

 

Thật mong không chừa một ai buổi sáng hôm nay hết thảy sẽ dám hướng nhìn đến “Con Người” đã giáng thế chịu chết trên cây thập tự gía, chính là Cứu Chúa Giê-xu, tin nhận Ngài mà nhận được sự sống đời đời.

 

 

--------------------- Lời Mời Gọi

 

1) Ai trong chúng ta cũng công nhận rằng loài người là loài thông minh nhất trên đất, có khả năng sáng chế, tìm tòi, phát minh… nhưng loài người cũng có sự bất lực/bất toàn trước nhiều thứ. Một trong những điều đó chính là sự chết. Nhiều việc vĩ đại loài người có thể làm được, nhưng có một điều mà chắc chắn ai trong chúng ta sẽ chịu thua, đó chính là “tử thần!” Sự “chết là chắc” đến với mọi người, vì mọi người đều đã phạm tội. Điều này không ai có thể chối cãi được, cho người giàu cũng như người nghèo, kẻ trí thức cũng như người không có học, người sống ở Mỹ lâu cũng như kẻ sống ở bên nước Trung Hoa. Kẻ thù dữ nhất của loài người chính là tên tử thần, mà chưa có ai trên đời này thắng nó được. Không phải vậy thôi, nhưng loài người còn có lương tâm, và biết hướng thượng để tìm con đường cứu thoát. Vì vậy kể cả người Việt chúng ta cũng biết cầu khẩn Trời, vì biết rằng nhu cầu cứu rỗi linh hồn là nhu cầu lớn nhất mà mình không thể tự cứu mình được.

 

2) Vì vậy, mỗi người chúng ta cần có một vị Cứu Tinh.

 

3) Đấng Sáng Tạo biết rõ nhu cầu quan trọng này và yêu thương chúng ta, nên Ngài đã khải thị và ban cho một con đường cứu chuộc, đó chính là Con Ngài từ Trời giáng thế, trở nên Con Người để cứu loài người ra khỏi tội.

 

4) “Con Ngươì” chính là Con Đức Chúa Trời đã bị treo trên cây thập tự gía, mà hễ ai dám hướng nhìn Chúa, nghĩa là tin nhận Ngài đã chết chuộc tội cho mình, thì sẽ thoát được hình phạt của lửa địa ngục mà được sự sống đời đời.

 

Bạn có muốn nhận món qùa vô gía, nhưng lại không đòi gía này không? Hãy tin nhận Đức Chúa Giê-xu. Chúng ta phải biết cảm tạ trời ban mưa ban nắng, nhưng không phải chỉ nhận biết sự hiện hữu và những ơn phước thuộc thể mà thôi; nhưng còn biết món quà quí gía nhất ấy chính là sự khải thị của Ngài trong Con Người, để hòa đồng và cứu loài người trở lại với Chúa.


Thank God for Providing a Way of Salvation

John 3:12-16

 

I have spoken to you of earthly things and you do not believe; how then will you believe if I speak of heavenly things? 13 No one has ever gone into heaven except the one who came from heaven—the Son of Man. 14 Just as Moses lifted up the snake in the wilderness, so the Son of Man must be lifted up, 15 that everyone who believes may have eternal life in him.” 16 For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.”

 

Most of us accept that there is a great Creator, even though we do not know Him. We just know that He is the One who creates all things in heaven and on earth. For things that created on earth, no one will disagree that human is the most intelligent. Although we are not stronger than an elephant, run faster than a cheetah, fly as a bird; but human can capture these animals, build cars, air planes, and submarines. Just look at the satellite and computer systems, we can see the power of a human mind. However, mankind does have limits. No one can stop a storm, fly to other planets, or overcome death. Most of all, mankind cannot reach heaven. Many religions have tried over the history of human but they are all “broken ladders.” No one can know God, the great Creator, or reach Him; unless He reveals Himself to us. This revelation can only be done by God because there is nothing impossible for God to do.

 

For Nicodemus, Jesus told him straight that it is impossible for a person to enter heaven, unless through the Son of Man Who came down from heaven. May be Nicodemus as a respected Pharisee thought that he could reach God in heaven through his prestige, high esteem, religion, by doing good works, and being a Pharisee; but all of these were just “broken ladders.” Nicodemus needed Jesus, the Son of Man. Jesus has many titles, but the “Son of Man” title is a prophecy in Daniel 7:13-14 about Himself as the Messiah Who was sent from God to establish an eternal kingdom. Also, the title “Son of Man” reflects His human side to be identified with mankind and to save us back to God. Recognizing the way of salvation will not save us until we believe in Jesus. Jesus helped Nicodemus to understand this faith by reminding him an incident in the Old Testament recorded in Numbers 21:4-9. Because God’s people sinned, God sent snakes to bit many people. Because of Moses’ prayer, the merciful God told him to make a bronze snake and put it up on a pole and anyone who was bitten could “look” at it and live. “Looking to Jesus” is the saving faith and by believing in Jesus, a person will live and not perish.

 

The first step to inherit the eternal life is to accept we are powerless. The second step is to believe in the “Son of Man” that God sent to die and pay off all the debts of our sins. You don’t want to perish eternally by the sting of the “snake of death.” Will you believe in Jesus today and live. This should be the most important gift that we should be thankful to God while we are powerless, God gave a way of salvation through the “Son of Man.”