Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 70

Vương Quốc Của Chúa

(Luca 19:36-44; Gi 19:15)

Tối Thứ Sáu sắp tới đây, Hội Thánh của Chúa sẽ kỷ niệm Lễ Thương khó của Chúa Jesus. Chúa Nhật tới, Hội Thánh của Chúa sẽ tổ chức Lễ Mừng Chúa sống lại sau ba ngày, thân thể Ngài chịu chết chôn trong mồ mả. Tuần nầy là tuần lễ cuối cùng Chúa thi hành chức vụ trên đất. Ngày thứ nhất: Chúa vào thành Giê ru sa lem. Ngày Thứ Năm: Chúa bị bắt tại vườn Ghết sê ma nê. Ngày Thứ sáu: Chúa bị giải đến Phi lát và Phi lát truyền lịnh đóng đinh Chúa trên thập tự giá.

Hôm nay, nhờ ơn Chúa, tôi kính mời Quý vị học phân đoạn Kinh Thánh Lu ca 19:36-44; Giăng 18:36; 19:14-15. Trên đường vào Giê ru sa lem, Chúa Jesus được đoàn dân theo Chúa, trải áo mình trên đường, nhiều người "chặt nhánh cây chặt nhánh cây mà rải ra giữa đường" (Mat 21:8). Ðoàn dân tung hô Chúa Jesus là: "Ðáng ngợi khen Vua nhơn Danh Chúa mà đến!" (Lu ca 19:38).

Nước Do Thái, lúc đó đang bị đế quốc La Mã đô hộ. Họ phải làm lụng vất vả để nộp thuế cho Hoàng Ðế La mã là Sê sa. Dân tộc Do Thái vốn là một tuyển dân của Ðức Chúa Trời. Họ phạm tội với Chúa. Chúa quở trách họ. Nhưng bởi tình yêu, Ngài hứa Ngài sẽ ban cho họ Ðấng Mê-si cứu rỗi họ. Ngài sẽ sanh ra ở Bết lê hem. Người Do Thái học Cựu Ước ghi rằng: "Hỡi Bết lê hem... ngươi ở trong hàng ngàn Giu Ða là nhỏ lắm, song từ ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng cai trị Dân Y sơ ra ên; gốc tích Ngài bởi đời xưa, từ trước vô cùng." (Mi chê 5:1).

Chúa Jesus đã sanh ra ở Bết lê hem, khi lớn lên, Chúa Jêsus đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ, nên họ nhận ra rằng đúng Chúa Jêsus là Ðấng Mê-si giải cứu họ. Cho nên đã có lần "họ ép Ngài để tôn làm vua," nhưng Chúa không bằng lòng. (Giăng 6:15). Bây giờ Chúa công khai vào Thủ Ðô Giê ru sa lem. Ðoàn dân vui mừng nghĩ rằng đây là lúc Chúa sẽ tuyên bố làm vua, nên họ tôn vinh Ngài: "Ðáng ngợi khen Vua nhơn danh Chúa mà đến!" (Lu ca 19:38).

Dân Y sơ ra ên tin rằng Chúa Jesus sẽ giải cứu họ khỏi ách đô hộ của người La Mã và làm vua của họ. Có điều nầy xin Quý vị lưu ý là người Do Thái mong Chúa làm vua không phải vì yêu Chúa, nhưng chỉ vì họ có lợi. Họ nghĩ rằng nếu được Chúa Jesus làm vua thì họ sẽ có vị vua có quyền phép hóa bánh cho họ ăn, chữa bịnh cho họ lành. Tại Úc, khoảng 3 năm một lần, Ủy ban bầu cử toàn quốc tổ chức bầu cử một lần. Có khi dân bầu cho Liên đảng Tự do - Quốc gia; có khi dân bầu cho đảng Lao động, lên cầm quyền. Khi họ chọn Đảng nào đưa lên làm Chánh Phủ, không phải vì họ yêu thương Đảng đó, nhưng vì người dân nghĩ rằng Ðảng đó sẽ đem lợi ích cho họ nhiều hơn.

Do thái mong Chúa làm vua họ sẽ được tự chủ, họ có quyền tự do, thoát khỏi cái nhục làm nô lệ cho ngoại bang là Đế quốc La mã. Về phương diện ngoại giao, nếu Chúa Giê su là người Do thái làm vua của họ, họ sẽ được ngang hàng với các nước lân bang và có quyền tự quyết. Về phương diện Kinh Tế, Tài chánh, họ tự định đoạt chính sách kinh tế, tài chánh, thuế khóa, và nhất là khỏi phải đóng thuế cho ngoại bang là Đế quốc La mã.

Vậy thì, dân tộc Do thái mong theo Chúa Jesus để được cái điều gọi là: "Ðộc lập, tự do." Họ nghĩ rằng khi Chúa nắm Chính quyền thì, lập tức họ có lợi lớn!

Họ tin tưởng, vì Chúa đã từng hóa bánh cho năm, bảy ngàn người ăn no nê; Chúa từng quở sóng gió yên lặng; Chúa gọi La xa rơ từ kẻ chết sống lại. Bây giờ Chúa vào Thủ Ðô xưng vua, dù bọn lính La mã có đến chống lại, Chúa chỉ cần phán một lời là chúng ngã rạp hết. Họ tin có lý! Nhưng họ thất vọng. Khi một đám đệ tử các Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm đến bắt Ðức Chúa Jesus, có một môn đồ của Ngài rút kiếm ra chém đứt tai bên hữu một tên giặc thù. Chúa không những không khen người môn đồ nầy, mà Ngài còn quở trách Ông nầy rằng: "Hãy nạp gươm vào vỏ," (Ma thi ơ 26:52). Rồi Ngài chữa lành tai cho kẻ đến bắt Ngài. Ngài không chống cự gì cả, Ngài để tự nhiên họ bắt, trói rồi dẫn Ngài đi. Lúc đó "hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi." (Ma thi ơ 26:56). Không những Đức Chúa Giê su không chống cự mà Ngài còn chịu cho kẻ thì đánh Ngài, kẻ thì nhổ vào mặt Ngài, kẻ thì tát vào má Ngài, kẻ thì phỉ báng Ngài, Ngài vẫn yên lặng chịu tất cả sự nhục nhã. Tuy vậy, dân Y-sơ-ra-ên vẫn mong Ðấng mà họ tôn vinh: "Hô sa na, Vua nhơn danh Chúa mà đến" sẽ bày tỏ quyền năng vào giờ chót. Nhưng họ hoàn toàn thất vọng vào giờ chót, họ nghe Chúa Jesus trả lời với Phi Lát rằng: "Nước ta chẳng thuộc về thế gian nầy." (Giăng 18: 36). Vậy là mộng Chúa làm vua, được độc lập tự do khỏi tay đế quốc La mã của họ tiêu tan!

Vì hoàn toàn thất vọng, cho nên khi "Phi Lát nói cùng dân Giu Ða rằng: Vua các ngươi kia kìa! Những người đó bèn kêu lên rằng: Hãy đóng đinh hắn trên thập tự!" (Giăng 19:14,15).

Học tới đây chúng ta thấy tình đời thường đổi thay! Chúng ta thấy dân Y sơ ra ên, lúc họ quý, họ mến, họ nhờ, họ cậy, thì họ tôn xưng là Vua, là Chúa của họ; Lúc họ thấy không còn nhờ cậy được, thì họ không cần màng tới nữa. Họ cắt ngang tình, cắt ngang nghĩa. Họ sẵn sàng chia tay, giống như mấy câu thơ diễn ý của một thi sĩ nào đó rằng:

"Ông đi đường Ông, tôi đi đường tôi,

Tình nghĩa chúng ta chỉ thế thôi!

Những tưởng không mong nhờ cậy nữa,

Bận lòng chi lắm, giết cho rồi!

Câu chuyện Chúa vào thành Giê ru sa lem và được đoàn dân tôn vinh và rồi chính đoàn dân đó đòi giết Chúa, chúng ta học được điều quý báu là:

Dù theo Chúa có phước trên thế gian, nhưng đó không phải là điều chính yếu. Chúng ta nhớ đoàn dân theo Chúa, khi đói, Chúa hóa bánh cho họ ăn, họ chạy theo Chúa. Chúa quở họ rằng: "Chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con Người sẽ ban cho các ngươi." (Gi. 6:27). Ý Chúa nói hãy chăm chú vào sự sống đời đời hơn là chăm chú vào của cải và ăn uống trên đời nầy.

Quý vị nghĩ sao, nếu chúng ta thấy trong xóm của mình, người không theo Chúa làm ăn khá giả, còn chúng ta là những con dân Chúa làm ăn lại thất bại? Như vậy, chúng ta có nên trách Chúa, giết chết Chúa bằng cách loại Chúa ra khỏi cuộc đời của chúng ta không? Không nên như vậy! Có khi Chúa đang thử thách tấm lòng theo Chúa của chúng ta.

Xin lưu ý là, chúng ta theo Chúa, chúng ta sẽ được Chúa thương yêu và chu liệu cho những nhu cầu của chúng ta. Mỗi người khi nhìn lại cuộc đời theo Chúa của mình sẽ thấy rõ ràng Chúa có ban phước nhiều cho mình, cho gia đình mình. Nhưng lời Chúa dạy "đủ ăn, đủ mặc thì phải thỏa lòng." (I Ti mô thê 6:8). Ðiều lớn lao làm cho chúng ta theo Chúa là để được sự tha tội và được sự sống đời đời, chớ không phải để có dư đồ ăn, hay dư dả tiền của để tranh đua với người nầy người khác. Đức Chúa Giê su dạy mỗi chúng ta rằng điều đáng tìm kiếm và vui mừng là "tên các ngươi đã ghi trên thiên đàng." (Lu ca 10:20b).

Ðoàn dân theo Chúa vì chú trọng vào vật chất. Họ tính chuyện "mua đài, sắm xe," tính chuyện quyền thế đời nầy, nên họ thất vọng. Rồi họ gạt bỏ Cứu Chúa của họ khỏi đời sống họ. Thật tội nghiệp cho họ! Vì họ phải chuốc lấy sự hư mất linh hồn.

Đoàn dân chúc tụng Đức Chúa Giê su là "Ðáng ngợi khen Vua nhơn Danh Chúa mà đến!" Vâng! Ðúng! Chúa là vua, nhưng không có nghĩa Ngài làm vua ngồi trên ngai vàng ở Thủ đô, nhưng Ngài là vua ngự Ngôi cao trên trời và trong lòng tất cả con dân của Ngài.

Chúa Jesus đáp cùng Phi Lát rằng: "Nước ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy," có nghĩa rằng nghĩa là Vương quốc của Ngài không giống như một quốc gia nào trên đất cả. Vì quốc gia trên đất có biên cương. Còn Vương quốc của Chúa không có biên cương. Vương quốc của Chúa ở trong lòng của con dân của Ngài. Con dân Ngài thì ở khắp mọi nơi, và hơn nữa, Vương quốc Ngài ở Thiên đàng, thuộc về trời, chớ không phải thuộc về đất.

Quý vị có mời Chúa vào lòng và có để Chúa làm vua cuộc đời của mình không? Nếu có, thì Quý vị thuộc về Vương quốc của Chúa và Quý vị thuộc về công dân trên trời, chớ không thuộc về đời nầy. Ðời nầy đối với Quý vị chỉ là tạm mà thôi. Nếu chúng ta nhận thức đời nầy là đời tạm thì cuộc sống của Quý vị dẫu có lỗ lã một chút đâu có sao? Nhịn thua ai đó một chút đâu có sao? Người khác hơn mình một chút đâu có sao? Khổ cực vì việc Chúa đâu có sao? Vì đây là tạm mà! Chúng ta không cần chất chứa những công lao mình nơi đất tạm nầy làm gì? Chứa cái gì nơi vĩnh cửu mới đáng công! Cám ơn Chúa, Ngài dạy chúng ta: "phải chứa của cải ở trên trời." (Ma thi ơ 6:20).

Có điều rất đặc biệt là khi Chúa Jesus vào thành Giê ru sa lem thì Ngài "khóc về thành" (Lu ca 19:41) nầy. Vì Chúa thấy trước sự bất hạnh của thành Giê ru sa lem, vì dân ở đây không biết nghĩ đến những điều vĩnh cửu, mà chỉ nghĩ điều hiện tại tạm thời.

Ước ao rằng Chúa nhật nầy, mỗi chúng ta kỷ niệm ngày Chúa Jesus ngự vào thành Giê ru sa lem, thì cũng cầu nguyện xin Chúa ngự vào lòng của chính mình. Chúa quá buồn đến nỗi Ngài đã khóc khi vào thành. Cầu xin Chúa nhìn vào cuộc đời mỗi chúng ta Chúa vui vì mỗi chúng ta xứng đáng là con yêu dấu của Ngài, vì có niềm tin vững vàng nơi Ngài, đẹp lòng Ngài.

Xin nhớ, chúng ta theo Chúa điều quan trọng là được phước vĩnh cửu ở trong Vương quốc của Chúa chớ không phải chỉ vì ích lợi tạm trên đời nầy.

Xin Chúa ban phước cho mỗi chúng ta. A men.

Mục sư Trần Hữu Thành