Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 5

Sự Trông Cậy Đời Đời

(The Only Hope)

1 Peter 1:3-4

 

“Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài lấy lòng thương xót cả thể khiến chúng ta lại sanh, đặng chúng ta nhờ sự Đức Chúa Jêsus Christ sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống, 4 là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em,”

(Praise be to the God and Father of our Lord Jesus Christ! In his great mercy he has given us new birth into a living hope through the resurrection of Jesus Christ from the dead, 4 and into an inheritance that can never perish, spoil or fade. This inheritance is kept in heaven for you,)

 

 

I. Our Needs

 

> Thank you for accepting our invitation to come and join us in this special Easter service. (Thay mặt Hội Thánh, cám ơn tất cả quí quan khách đã nhận lời mời của Hội Thánh, đến dự buổi nhóm tối này mừng đại lễ Chúa Phục Sinh.)

 

> You may sit there and wonder – why am I here? (Có lẽ quí vị ngồi đó và tự hỏi - tại sao tôi đến đây để làm gì? Việc này có ích lợi gì cho tôi không?)

# What is Easter all about? (Đại lễ Chúa Phục Sinh có nghĩa gì? Có liên hệ gì đến tôi không?)

# Why do I need to know the story of a man, named Jesus - Who was dead and 3 days later resurrected, that billion people are talking about this week every year? (Tại sao tôi cần biết đến câu chuyện của một người tên Giê-xu, đã một lần chết, chôn và sau 3 ngày thì sống lại, mà thế giới cả tỉ người đang kỷ niệm mỗi năm vào mùa này?)

 

> My first answer to you is this – we need to know the story of Easter because as human we all have needs. (Câu trả lời của tôi cho bạn… đó là hết thảy c/ta cần biết về đại lễ này… vì ai trong c/ta cũng có nhu cầu.)

# Our first basic need is that we must breath and eat to stay alive. (Nhu cầu căn bản nhất của loài người đó là c/ta phải thở và ăn… để mà sống.)

# We need to work to have money; so, we can feed our family, provide a house and other things to live a comfortable life. (C/ta cũng cần sống để làm việc, có tiền bạc lo cho gia đình mình, sắm những vật cần thiết, hầu cho c/ta có một đời sống đầy đủ và thoải mái.)

# When we want to fix a house due to a flood, we need to find a construction contractor who know what to do. (Khi c/ta muốn xây cất lại căn nhà bị nước lụt, c/ta cần đi tìm những nhà thầu khóan, chuyên lo việc xây cất nhà cửa.)

 

> Human does not just have physical needs, but spiritual ones; because we are created as living bodies that also have souls and spirits. (Là con người c/ta không chỉ có những nhu cầu phần thuộc thể mà thôi, nhưng có phần tâm linh nữa, bởi vì con người c/ta được dựng nên còn có phần linh hồn và những nhu cầu của nó nữa.)

> For that reason, only human think about many mysterious questions, and the most two important ones are:

1) Where did I (human) come from? And

2) Where will I spend in eternity?

(Vì lý do đó mà loài người c/ta luôn suy nghĩ đến những câu hỏi huyền bí và một trong 2 câu hỏi quan trọng nhất đó là: Loài người đến từ đâu? Và 2) c/ta sẽ đi về đâu đời đời?)

 

> In these 2 questions, the second one is more important, because we are already here; but we don’t know where we will go… beyond the “curtain” of this life? (Trong 2 câu này thì câu hỏi thứ hai quan trọng hơn, vì c/ta đã hiện hữu ở đây rồi; nhưng không biết mình sẽ đi về đâu sau “cánh màn” của cuộc sống này?)

> “Where will I go after I die” – that’s a question we need an answer for. (“Tôi sẽ đi đâu sau khi chết” – đó là câu hỏi c/ta cần tìm câu trả lời, và đó là nhu cầu chung của mỗi người.)

 

> We all will die one day, no one can deny that. (Ai trong c/ta rồi cũng phải đi chung một con đường kết thúc đó là sự chết.)

> Our life begins at birth and ends at our funeral. (Cuộc đời của mỗi chúng ta bị đóng khung từ ngày sinh nhật cho đến lễ đám tang của mình.)

# Someone compares human life is a clock; when we were born, the clock begins to tick, until it runs out of battery, then it stops. (Có người đã so sánh cuộc đời của con người giống như một cái “đồng hồ sống,” khi c/ta mới sanh ra đời thì đồng hồ bắt đầu chạy; Một ngày cái đồng hồ đó sẽ hết pin, ngừng chạy và cuộc đời của chúng ta sẽ chấm dứt.)

# We all probably have a chance standing in front of a dead body at a funeral; for sure, we did ask ourselves – where does this person go? Is that all for life? (Trong c/ta có lẽ đã có lần đứng trước một quan tài khi đi dự lễ an táng của một người - thiết nghĩ đã có lúc c/ta tự hỏi – “Người nằm đó bây giờ đi đâu rồi? Sự sống này sẽ dẫn mình đi đâu nữa?”)

 

> “Is there any thing else beyond this life?’ That is the question we need an answer for, so we can better prepare for it before the “sunset.” (Nhu cầu của c/ta là cần có câu trả lời cho câu hỏi quan trọng “Có còn gì sau cái chết không,” để c/ta chuẩn bị cho cõi đời sau, mà không hối tiếc khi “chiều tàn” kéo đến?)

 

 

II. The Great Creator

 

> So, it comes down to this question – WHO has the answer for our eternity beyond this life after we die? (Cho nên câu hỏi cuối cùng luôn là… AI là đấng sẽ có câu trả lời cho câu hỏi huyền bí này sau cái chết?)

> The problem is not that we do not have any answers, but which one is the correct one. (Vấn đề không phải là không có câu trả lời, nhiều lắm; nhưng vấn đề là câu trả lời nào là đúng đây? Vì nếu “sai một li đi một dặm” thì mình sẽ nuối tiếc vì chọn sai câu trả lời sao?)

# Have you got lost before, because you made a wrong turn? (Bạn có bao giờ bị đi lạc đường chưa, vì quẹo không đúng lối?)

> Có một thanh niên có lần đến nhà tôi chơi vào một buổi tối thứ Sáu. Đến Chúa Nhật tôi đi nhà thờ thì người mẹ của cháu hỏi tôi là tối thứ Sáu đó mấy giờ thì các em nhóm học ở nhà Mục Sư ra về.

> Tôi trả lời là khoảng 10 giờ tối. Bà hỏi tiếp “Thế sao đứa con trai tôi tới 2 giờ sáng mới về đến nhà?”

> Tôi mới tìm em thanh niên đó và trách – “Tại sao em không về nhà đúng giờ mà còn đi chơi đâu nữa mà không xin phép cha mẹ mình?

> Em trả lời: “Mục sư ơi! Em đâu có đi đâu chơi, em chỉ có cái quần xà lỏn mà đi đâu. Lý do là như vậy - sau 10 giờ em lái xe về nhà, thay vì quẹo phải đường Airline về nhà, em mới biết lái xe, em đem quẹo trái đi lạc tuốt xuống dưới New Orleans mà không biết đường về, và mất nhiều thì giờ mới tìm đường lái xe trở lại Baton Rouge, cho nên 2 giờ sáng em mới về nhà được.) 

 

> Each turn brings you to different destinations. (Mỗi con đường c/ta chọn đi, mỗi lối c/ta quẹo sẽ chắc chắn dẫn c/ta đến một điểm tới khác nhau.)

> Not all answers are correct, not all paths lead to the same place; Some will lead you to the wrong places where you do not want to go! (Không phải câu trả lời nào cũng đúng hết, hay cùng dẫn c/ta đến một điểm tới; Kinh Thánh chép – “Có những con đường dường như chính đáng lắm, nhưng nẽo của nó là sự hư mất,” sẽ dẫn c/ta đến chỗ mà c/ta không bao giờ muốn đến.)

> We need to seriously choose the correct answer, or we will be regret forever. (C/ta phải cẩn thận suy xét kỹ càng mà chọn đúng con đường, không khẻo c/ta sẽ hối tiếc đời đời sao?)

 

> To find out which is the correct answer, we need to carefully explore about the person who gives us the answer. (Muốn tìm xem đấng đã cho mình câu trả lời có đúng không, trước hết c/ta cần xem xét kỹ càng về Đối tượng đã cho mình câu trả lời đó.)

# When you buy products, do you carefully look for the brandnames; then why we are so careless to exam those who give us the answer for our eternity? (Khi mua đồ vật, c/ta lựa chọn kỹ càng coi xem những món đồ đó đến từ đâu; nhưng tại sao c/ta lại bất cẩn trong việc xem xét kỹ càng những đối tượng cho mình lý thuyết của sự sống đời đời sau cái chết sao?)

 

> To know we must ask - Does the person has the ability and power to answer this mysterious question? (C/ta phải tự hỏi - Đấng đó có khả năng gì để trả lời câu hỏi huyền bí nhất này không?)

# When you get sick, why do you go see a doctor, and not a lawyer? Simply because the doctor has been trained and the ability to knows how to diagnose your sickness and prescribe the treatment medicine. (Tại sao khi quí vị đau ốm mình lại đi bác sĩ mà không tìm ông luật sư? Lý do là vì bác sĩ là những người đã được huấn luyện có sự hiểu biết về bệnh tật và có khả năng để chữa bệnh cho c/ta.)

# When your car broke down, why do you bring it to a mechanic shop, and not a nail salon? You know the answer. (Tại sao khi xe c/ta hư, c/ta đưa vào tiệm sửa xe, mà không đến tiệm làm móng tay?)

# When you want to invest your money, why do you search for a broker, and not a teacher? (Tại sao khi quí vị muốn đầu tư tiền bạc thì đi tìm người bán công khố phiếu, nhưng không đi hỏi các thầy cô dạy học?)

 

> The greatest person who has the ability and power to answer our most mysterious question about eternity is the great Creator, the One who made the heavens and the earth, and created us. (Đấng lớn nhất có khả năng mà có thể trả lời câu hỏi huyền bí nhất cho tương lai đời đời của c/ta chính là Đấng Tạo Hóa Chí Cao, là Đấng đã dựng nên trời và đất, và dựng nên loài người c/ta.)

# Our Vietnamese people looked up, saw a massive space in the sky, don’t know who the great Creator is, but just called Him – “Ong Troi.” (Người Việt c/ta nhìn lên bầu trời không gian vĩ đại, không biết Đấng Tạo Hóa là ai, nhưng chỉ gọi Đấng đó với danh xưng là “Ông Trời.”)

> The Bible called Him with the name “God” right in the first book, first chapter, and first verse in Genesis 1:1“In the beginning God created the heavens and the earth.” (Kinh thánh, trong câu đầu tiên thì có nói về tên Ngài là Đức Chúa Trời – “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.”)

 

> God created human with an eternal plan; So, He must know where we will all be going in eternity. (Nếu Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người thì chắc rằng Ngài cũng biết rõ chương trình đời đời của mỗi c/ta, nghĩa là Chúa biết rõ c/ta sẽ đi về đâu.)

> We need to find out our eternal purpose and destiny from Him. (C/ta cần tìm kiếm câu trả lời đích thực từ nơi Đức Chúa Trời.)

 

> But where is God that I can find Him and quest for an answer? (Nhưng mà ông Trời ở đâu để tôi tìm kiếm mà có câu trả lời đây?)

> The Bible said God is Spirit, we cannot see Him with our naked human eyes; the only way we can see Him is if He becomes a human liked us. (Kinh Thánh chép Đức Chúa Trời Toàn năng Chí Cao là Thần Linh mà c/ta không thể thấy bằng mắt trần của mình được, chỉ có một cách c/ta thấy được Ngài nếu Đấng đó trở nên con người giống như c/ta.)

> And that was exactly what God did – He sent His Son into the world, so that we can know God, and His name is Jesus Christ. (Đó chính là phương cách Chúa đã làm khi Con Ngài là Chúa Giê-xu từ trời đến thế gian và mặc lấy thân xác của loài người, để qua Giê-xu c/ta thấy và biết được Đức Chúa Trời.)

# The Bible in Philippians 2:5-7 verifies this manifestation – “In your relationships with one another, have the same mindset as Christ Jesus: Who, being in very nature God, did not consider equality with God something to be used to his own advantage; rather, he made himself nothing by taking the very nature of a servant, being made in human likeness.” (Lời Kinh thánh trong Philíp 2 có làm chứng điều này – “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người;”)

> Jesus is God Who left His glory in heaven, put on human skin, and came to earth once, so we can all know God, the great Creator. (Chúa Giê-xu từ trời đến, Ngài đã lìa bỏ sự vinh hiển riêng của mình, đến thế gian mang lấy da thịt của con người, để c/ta biết Đức Chúa Trời vô hình.)

 

1) We know Jesus is God, first because He was born from a virgin that never happened to anyone on this earth. (C/ta biết Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, trước tiên bởi vì chỉ có một mình Ngài sanh ra đời từ một người nữ đồng trinh.)

> The world witnesses His virgin birth every year during Christmas time that no other religion has. (Thế giới làm chứng điều đó mỗi năm trong mùa lễ Giáng Sinh, mà không có một tôn giáo nào có.)

> Jesus was born from a virgin to testify that His root was NOT from Adam & Eve; So, He does not inherit their sinful nature. (Chúa Giê-xu sanh ra từ một nữ đồng trinh để chứng tỏ Ngài không mang đặc tánh của Ađam và Êva, là tổ tiên của loài người, đã một lần phạm tội.)

 

2) We know Jesus is God because of His power to do many miracles that only God could do. (C/a biết Chúa Giê-xu là Đấng Sáng Tạo qua những phép lạ Ngài đã làm khi còn sống trên đất này, mà chỉ có Đức Chúa Trời làm được thôi.)

> The Bible recorded at least 34 miracles Jesus did that no one in the history of mankind could ever do. (Kinh Thánh ghi chép lại tối thiểu 34 phép lạ Chúa đã làm, mà trong lịch sử loài người chưa có vị nào đã làm giống như vậy.)

> His miracles could be divided into four different catergories: (Phép lạ của Chúa Giê-xu được chia ra làm 4 nhóm:)

1) Healing all physical diseases, 2) Ruling the nature that beyond the human ability, 3) Overcoming every spirit/evil/demon-possed world, and 4) Raising the dead people to life. (1 – chữa lành mọi bệnh tật, 2 - tể trị cả thiên nhiên làm ngừng những sóng bão, 3 - thống trị mọi quyền lực của thế giới thần linh, quỉ ám, và 4 – làm cho người chết sống lại.)

 

3) More than that, through Jesus’ teachings - God gives us the answer for our eternity. (Còn hơn nữa, trong lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu, Ngài cho c/ta câu trả lời cho thế giới đời đời của mỗi c/ta.)

> Through His words, Jesus taught that death is not the end, we don’t just evaporate to nothingness, but there is life beyond death. (Qua lời Ngài phán rõ đó là chết không phải là hết; c/ta không chỉ biến mất vào chỗ hư không, nhưng còn có sự sống sau cánh màn của sự chết nữa.)

> His teaching said that after this life, there is heaven or hell. (Lời Chúa dạy rõ sau cái chết, còn có thiên đàng và địa ngục.)

> Jesus even shows us the way on how to get to heaven and to avoid hell in John 14:6I am the way and the truth and the life. No one comes to the Father except through me.” – Basically, He meant – “I am the only One can bring you to a place called heaven where there “will be no more death, or mourning, or crying or pain, for the old order of things has passed away.” (Revelation 21:4) (Chúa Giê-xu còn chỉ cho c/ta con đường làm sao đến thiên đàng qua lời tuyên bố “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.” Nghĩa là chỉ một mình Ngài mới có thể dẫn c/ta về với Đức Chúa Trời, nơi thiên đàng là nơi chẳng còn “… nước mắt… sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.”)

 

4) Jesus was not just teaching about it, but He prepared and provided the way for us to go there. (Chúa Giê-xu không chỉ dậy dỗ về nước thiên đàng, nhưng Ngài còn cung cấp và chuẩn bị cho c/ta con đường để vào được nước thiên đàng nữa.)  

 

a) First, He prepared the way for us by dying on the cross to wash away all our sins. (Trước hết, Chúa chuẩn bị con đường cứu chuộc cho c/ta bằng sự hy sinh chết trên cây thập tự để gội sạch mọi tội lỗi của c/ta.)

> We are all sinners first because we are all came from the first two sinners – Adam & Eve. (C/ta hết thẩy là tội nhận vì sanh ra từ dòng dõi của 2 người tội nhân đầu tiên là Ađam & Êva.)

> We are all sinners because we all have committed wrong doings. (C/ta hết thảy là tội nhận vì chính mỗi người đã tự ý phạm tội nghịch chùng Chúa.)

# We may not be a serial killer, a rapist, but we have lied, cheated, committed adultery with our eyes and mind, stolen things that belong to someone else, disrespected our parents, did not care for the poor, get angry that caused damages to others, treated our neighbors unfairly… (Có thể c/ta không phải là kẻ giết người, hiếp dâm ai, nhưng chắc chắn c/ta đã có lúc ăn gian, nói láo, phạm tội ngoại t3ình với cặp mắt của mình, ăn cắp trộm của ai đó, bất kính với cha mẹ, không thương người nghèo đói, hay đối xử bất công với những người khác…)

> As sinners, we cannot do anything to wash away all our sins. The more we do, it seems the more it shows our dirty sins. (Chúng ta là những kẻ tội nhân bất toàn thì không thể nào tự làm gì để được sạch tội; nhiều khi c/ta càng làm càng bày tỏ rõ sự xấu xa ô uế của tội lỗi ở trong mình mà thôi.)

# A story of a little kid playing outside and fell in the mud. (Câu chuyện một đứa bé chạy ra ngoài đường chơi sau cơn mưa, chẳng may té vào một vũng bùn.)

> One of his hands was dirty and his mom told him go and wash your dirty hand. (Một bàn tay của cháu bị dơ, đen thùi lùi; má nó thấy vậy thì bảo nó đi lấy nước rửa cho sạch.)

> The kid answer: “I don’t need to wash my hand; I still have the other hand clean, I can just rub my dirty to the clean one and it will be clean.” (Thằng bé trả lời: “Con không cần nước, con còn một bàn tay kia sạch, con sẽ chà bàn tay dơ vào bàn tay sạch thì nó sẽ được sạch.”)

> But the kid quickly learned that both of his hands now were dirty. (Nhưng rồi thằng bé khám phá ra ngay rằng mình chỉ làm cả hai bàn tay của nó dơ hết mà thôi.)

 

> Sin separates us from God; So, in order for us to enter the eternal kingdom of God in heaven, our sins must be dealed with. (Tội lỗi phân rẽ c/ta khỏi Đức Chúa Trời thánh khiết; vì vậy c/ta muốn vào nước thiên đàng là chỗ không có tội lỗi thì chính tội lỗi của c/ta phải được sạch.)

> And that was exactly how Jesus did it for us. He died on the cross in our place; so, all of our sins can be earsed forever; and we can become perfectly righteous to enter heaven. (Và đó chính là tại sao Chúa Giê-xu chết trên cây thập tự gía chuộc sạch mọi tội cho c/ta, để được xưng công chính đủ điều kiện vào được nước thiên đàng một ngày.)

> The cross where Jesus died is the proof/receipt that all debts of our sins have been cancelled – “Paid in full.” (Thập tự gía là dấu chứng, biên lai rõ rệt là tội lỗi c/ta đã được “thanh toán trọn vẹn.”)

# In 2008, I paid off my house and a few weeks later I received a letter from the Washington Mutual bank with bold and red mark “Paid in Full” – what a joy on that day! (Vào năm 2008, tôi có cơ hội trả hết tiền nợ nhà, vài tuần sau nhận được tờ giấy từ nhà bank Washington Mutual có ấn 3 chữ màu đỏ “Trả đã trọn.”)

> More than that, in 1981 when I came to believe and placed my faith in Jesus, all my sins are “paid in full” – What an eternal joy on that day! (Còn hơn nữa năm 1981 khi tôi đến tin nhận Chúa Giê-xu, mọi tội lỗi của tôi từ ngày đó đã được trả trọn bởi chính huyết thánh của Ngài.)

 

b) Not just Jesus died for us, but He was ressurected after 3 days to bring us hope that one day all of those who believe in Him will also be raised to inherit the eternal life. (Chúa Giê-xu không chỉ chết cho c/ta mà thôi, nhưng Ngài đã sống lại sau 3 ngày để đem cho c/ta sự trông cậy của sự sống lại đời đời.)

# 1 Peter 1:3-4 Peter proclaimed – “Praise be to the God and Father of our Lord Jesus Christ! In his great mercy he has given us new birth into a living hope through the resurrection of Jesus Christ from the dead, 4 and into an inheritance that can never perish, spoil or fade. This inheritance is kept in heaven for you,” (Trong 1 Phiêrơ 1:3-4 có chép – “Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài lấy lòng thương xót cả thể khiến chúng ta lại sanh, đặng chúng ta nhờ sự Đức Chúa Jêsus Christ sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống, 4 là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em,”)

 

> If we are forgiven, but we died and would never be raised from the death, then every promises of God about the kingdom for us are useless. (Nếu c/ta được tha tội bởi huyết của Chúa Giê-xu, và khi c/ta chết rồi mà không sống lại nữa thì tất cả những lời của Chúa hứa về nước thiên đàng chỉ là vô ích mà thôi. C/ta vẫn cứ còn ở trong mộ.)

# Paul challenged in 1 Corinthians 15“19 If only for this life we have hope in Christ (and not the eternal life in God’s kingdom in the next life), we are of all people most to be pitied… And if Christ has not been raised (so that we obtain our eternal life), then our preaching is useless and so is your faith... 17 And if Christ has not been raised, your faith is futile; you are still in your sins.” (Sứ đồ Phaolô thách thức và nói trong 1 Côrinhtô 15 – “19 Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết… 14 Lại nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì sự giảng dạy của chúng tôi ra luống công, và đức tin anh em cũng vô ích… 17 Và nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin anh em cũng vô ích, anh em còn ở trong tội lỗi mình.”)

> But Paul convinced us in vs. 20-21“But Christ has indeed been raised from the dead, the firstfruits of those who have fallen asleep. 21 For since death came through a man, the resurrection of the dead comes also through a man. 22 For as in Adam all die, so in Christ all will be made alive.” (Nhưng rồi Phaolô thuyết phục c/ta trong câu 20-21 – “Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. 21 Vả, vì chưng bởi một người mà có sự chết, thì cũng bởi một người mà có sự sống lại của những kẻ chết.”)

> Jesus’ resurrection answers the most mysterious question – Is there anything else beyond death? And the answer is Yes; because Jesus was raised from the dead after 3 days. (Sự Chúa Giê-xu đã sống lại chứng tỏ một câu hỏi huyền bí và lâu đời nhất, đó là “Có còn gì sau cánh màn của sự chết không?” thì câu trả lời là chắc chắn có, vì Chúa Giê-xu đã sống lại sau 3 ngày chôn trong mộ đá.)

# And in 1 Corinthians 6:14, Paul declared – “By His power God raised the Lord from the dead, and He will raise us also.” (Và trong 1 Côr. 6:14 sứ đồ Phaolô đã khẳng định lẽ thật này như sau – “Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến Chúa (Giê-xu) sống lại, cũng sẽ lấy quyền phép mình khiến chúng ta sống lại nữa.”)

 

> The Bible said everyone will be raised from the dead, but only those who believe in Jesus will inherit the eternal life in the kingdom of God, and NOT the judgment. (Kinh thánh chép rõ mọi người trên trần thế này sẽ phải sống lại, nhưng những kẻ đã tin nhận Chúa Giê-xu sẽ sống lại để hưởng nước thiên đàng, chứ không còn bị phán xét.)

# Hebrews 9:27 said - “Just as people are destined to die once, and after that (to be raised and) to face judgment.” (Trong Hêbêrơ 9:27 chép rõ: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét,”)

> The judgment is only for those who do not believe in God’s Son or reject the gift; we are those who have trusted Jesus will be resurrected to receive the eternal life. (Sự phán xét này chỉ cho những ai không chịu tin nhận Con của Đức Chúa Trời, đã từ chối món quà cứu rỗi mà thôi.)

 

-------------------------

> Do you know where you will spend in eternity? (Bạn có biết mình sẽ đi đâu đời đời không?)

> Do you see a need to answer this question? (Bạn có thấy mình cần trả lời câu hỏi này không?)

# Jesus has the answer for you. He can give you the hope for your eternity. (Chúa Giê-xu có câu trả lời chắc chắn cho bạn. Ngài ban cho bạn sự trông cậy đời đời.)

 

> To close this message of Easter, I want to tell a story about the scientist Albert Einstein. (Để kết thúc sứ điệp Phục Sinh tối hôm nay, tôi xin kể lại một câu chuyện về cuộc đời của nhà bác học Albert Einstein mà tôi rất thích.)

> Người ta chép lại ngày xưa có lần nhà bác học vật lý nổi tiếng Albert Einstein đang đi trên 1 toa xe lửa đến thành phố Princeton. Khi người khám vé (ticket inspector) đi đến từng chỗ để bấm vé thì nhà bác học Albert bỗng nhiên tìm không ra cái vé của mình. Ông tìm trong các túi áo (pocket), trong dỏ sách của mình, nhưng kiếm hoài không ra.

> Người kiểm vé bèn nói với nhà bác học: “Dr. Albert, tôi biết ông là ai. Xin ông đừng lo, tôi biết chắc ông đã mua vé rồi,” rồi người bỏ đi tiếp. Khi qua một toa khác nhìn lại thì người khám vé vẫn thấy nhà bác học đang cặm cụi cúi xuống vẫn còn tìm tòi cái vé xe lửa của mình ở dưới ghế.

> Anh bèn trở lại và nói: “Dr. Albert! Tôi đã nói ông đừng lo lắng chi. Tôi biết ông là ai mà. Ông không cần tìm nữa, tôi biết ông đã mua vé rồi.”

> Nhà bác học ngước lên và nói: “Thưa Anh! Tôi biết tôi là ai và tôi cũng biết tôi đã mua vé xe lửa rồi, nhưng tôi không biết mình sẽ đi về đâu, phải xuống trạm xe lửa nào, nên tôi phải tìm cho ra cái vé của mình!”  (I know who I am, I know that I already bought the ticket, but I don’t know where I am going, so I need to find my ticket.)

> Do you know where you are going in eternity? Do you have a ticket to go to heaven yet? (Bạn có biết mình đi về đâu đời đời không? Bạn đã có “cái vé” để được sống lại đời đời và ở trong nước thiên đàng chưa?)

 

> Jesus has the answer; He has the ticket for your eternity in heaven. (Chúa Giê-xu có câu trả lời cho định mệnh của bạn; Ngài có vé cho bạn vào nước thiên đàng.)

> Are you willing to trust His answer and place your faith in Him. (Bạn có sẽ đặt niềm tin của mình ở nơi Chúa không?)

> If you do that you will surely know where will you go and spend in eternity. (Nếu bạn bằng lòng tin cậy Chúa, bạn sẽ biết chắc mình sẽ đi đâu đời đời.) 

> You can do it now, right now to come to Jesus! (Bạn có thể nhận sự cứu rỗi ngay tối hôm nay nơi Chúa Giê-xu; ngay bây giờ mong bạn hãy đến với Ngài.)

 


----------------- Invitation

 

> Một thực trạng ai trong c/ta cũng biết đó là sống ở đời này rồi ai trong chúng ta cũng phải chết, chứ không có ai mà sống mãi được, vì hết thảy chúng ta đến từ dòng dõi của 2 kẻ tội nhân đầu tiên.

> Thiên hạ ngày nay đang cổ động đủ loaị thức ăn có chất bổ, “organics,” không chứa chất “glutton,” ít mỡ cùng với đủ loại thuốc dược thảo hay để sống trẻ, sống lâu, dài thêm một chút, nhưng rồi ai cũng đợi “xếp hàng” đến phiên của mình mà xuống lỗ thôi, vì “chết là chắc!”  

 

> Nhưng rồi sau đó c/ta sẽ đi đâu đây và có thật được yên nghỉ không (RIP)?

> Theo ý nghĩa thiêng liêng thì “trở về bụi đất” không phải là hết, vì con người chúng ta còn có phần linh hồn là phần không thể tự nhiên biến mất được.

> Kinh Thánh giúp cho chúng ta hiểu chết thể xác chỉ là “cánh cửa” để dẫn con người đến sự phán xét vì những tội ác mình đã làm. Đó là số phận cuối cùng của loài người mà thôi.

 

> Nhưng Chúa Giê-xu từ trời đã đến thế gian là để cứu loài người thoát ra khỏi quyền lực đoán xét của sự chết, và còn ban lại cho chúng ta mối liên hệ với Đức Chúa Trời.

>  Chúa Giê-xu đến để thanh toán sự chết là “tiền công của tội lỗi” cho chúng ta, hầu chúng ta được sống với Đức Chúa Trời đời đời.

> Chúa Giê-xu đến để diệt chết cái nọc của sự chết và ban cho những kẻ tin sự sống đời đời, khi Ngài từ phần mộ sau 3 ngày sống lại.

> Chúa Giê-xu đã sống lại để chứng tỏ lời Ngài đã hứa một lần có gía trị thật khi Chúa phán – (Because I live, you also will live.) “vì Ta sống, các ngươi cũng sống nữa.” (Giăng 14:19b)

 

# Có bao nhiêu người đã và đang mua bảo hiểm nhân thọ, chính điều này chứng tỏ cho lương tâm c/ta biết con người “chết là chắc!” phải không?

> Nhưng không ai có thể mua được bảo hiểm linh thọ, nghĩa là bảo hiểm cho linh hồn được, mà không có ai bán hết.

> Muốn có bảo hiểm linh thọ thì phải làm gì?

> Không phải làm gì hết… chỉ chấp nhận mình là kẻ tội nhân cần Chúa cứu… và bằng lòng đặt sự tin cậy trong Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời mà thôi.

 

> Tin cậy Chúa Giê-xu nghĩa là sao?

# Là chấp nhận mọi lời của Chúa Giê-xu đã nói và việc Ngài đã làm cho bạn là đúng.

a) Những lời Chúa Giê-xu phán về chính Mình là Con Đức Chúa Trời hiện thân thành người là đúng.

b) Việc Chúa đã chết trên cây thập tự gía chuộc tội cho c/ta và đã sống lại sau 3 ngày là đúng.

c) Lời Chúa Giê-xu hứa một ngày Chúa sẽ trở lại để ban nước thiên đàng cho mọi kẻ tin là đúng.

b) Lời Chúa Giê-xu dạy dỗ trong Kinh Thánh là tiêu chuẩn cho c/ta sống ngày hôm nay là đúng.

> Đó là tin. Dễ như vậy mà tại sao chúng ta chưa tin cậy Ngài?

 

> Đức Chúa Trời ban cho món quà cứu rỗi thì bạn không còn cần làm chi nữa, chỉ nhận lấy mà thôi.

> Món quà này không tốn bạn một việc làm công đức chi hết, vì đã được trả xong bởi chính huyết của Con Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa Giê-xu.

> Bạn chỉ cần mở lòng tin Chúa và nhận lấy mà thôi.

 

> Thành thật mời gọi bạn hãy đến và đặt đức tin của mình trong tay của Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng tử thần – Đấng Sống, để nhận lãnh món quà cứu rỗi cho mình ngay hôm nay, có sự trông cậy, chờ đợi nước thiên đàng, và biết rõ mình sẽ đi về đâu và ở đâu đời đời!

 

> Bạn phải chọn… đừng trì hoãn; Cơ hội tốt này có thể không còn nữa.

> Không ai biết ngày mai sẽ ra thể nào… vì thế người Việt thường có lời khuyên: “Chớ để ngày mai!”

# Kinh Thánh cũng vậy… lúc nào cũng mời gọi: “Hôm nay là ngày cứu rỗi!” chứ chẳng phải ngày mai! Mà đánh mất cơ hội ngàn vàng ngay buổi tối nay sao?