Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 86

Của Lễ Sống Và Thánh

(The Living Sacrifice)

Rôma 12:1-2

 

“Vậy thưa anh chị em, cậy ơn thương xót của Ðức Chúa Trời, tôi nài khuyên anh chị em hãy dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, một của lễ đẹp lòng Ðức Chúa Trời. Ðó là cách thờ phượng hợp lý của anh chị em. 2 Ðừng rập khuôn theo đời nầy, nhưng hãy để cho mình được biến đổi theo sự đổi mới trong tâm trí mình, hầu anh chị em có thể phân biệt được ý muốn tốt đẹp, vui lòng, và toàn hảo của Ðức Chúa Trời là gì.”

(Therefore, I urge you, brothers and sisters, in view of God’s mercy, to offer your bodies as a living sacrifice, holy and pleasing to God—this is your true and proper worship. 2 Do not conform to the pattern of this world, but be transformed by the renewing of your mind. Then you will be able to test and approve what God’s will is—his good, pleasing and perfect will.)

 

 

I. Cái Nhìn về Sự Sống

 

> Tuần trước đây, con dân Chúa ở khắp nơi đã ăn mừng đại lễ Chúa Giê-su Phục Sinh. (Last week, all over the world – Christians celebrate Easter – which is the most important event of the year.)

# Hội Thánh c/ta ở đây đã chuẩn bị đến 3 ngày… từ thứ Sáu lễ Thương Khó (Good Friday) đến sáng Chúa Nhật rạng đông (Sunrise service) mừng Chúa sống lại. (VHBC had a blast in three services from Good Friday to Sunrise worship)

> C/ta biết Chúa Giê-su Phục Sinhmột chân lý rất quan trọng, vì trả lời được câu hỏi huyền bí nhất cho nhân loại… đó là câu hỏi - Nếu một người chết đi, người ấy sẽ sống lại được chăng? (Christ’s resurrection verifies one of the most important truths, because it answers the most critical question about – “If someone dies, will they live again?”)

> Hay nói một cách khác, nếu Chúa Giê-su đã chết mà không sống lại… thì c/ta không ai có sự trông cậy của sự sống lại và sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời, nhưng chết rồi sẽ đi vào sự hư mất trong hồ lửa địa ngục mà thôi. (In another word, if Christ did not rise from the dead, then we do not have hope of the eternal life; but we will all die and end up in hell.)

 

> Bây giờ đang chờ đợi ngày vinh hiển đó để được ở với Chúa mãi mãi… thì c/ta phải sống như thế nào đây? (While waiting for that glorious day to be with our Lord Jesus forever in heaven - How should we live?)

> Cách c/ta bây giờ sống như thế nào… tùy theo tầm nhìn của đức tin c/ta trong lời của Chúa. (How we live now depends on our perspective, our view about life… according to the words of God.)

> Cái nhìn của những người trần thế về cuộc sống chỉ là để thâu lượm/tích trữ cho được nhiều của cải, tiền bạc, danh vọng, làm sao hưởng thụ tối đa cho sướng, và rồi chết mất; nhưng cái nhìn của những người có sự trông cậy đời đời thì không phải như vậy. (The world view is always about accumulating more money, achieving prestige and fame as much as they can, enjoy life to the maximum, then die; but a Christian’s view with hope is different.)

 

> Sứ đồ Phaolô là người đã thấy Chúa Giê-su sống lại và hiện ra với mình khi trên đường đi đến thành Đamách… thì giúp c/ta thấy cái nhìn của những người có sự trông cậy… đó là một của lễ sống và thánh. (The apostle Paul was the person who saw the living Lord Jesus appearing to Him on the road to Damascus… helps us to view this new life as… a living and holy sacrifice.)

> C/ta được Chúa cứu và ban cho sự trông cậy, không phải để bây giờ c/ta sống y như cũ, chỉ biết tìm kiếm sự thoải mái, sung sướng ở đời này mà thôi, nhưng làm của lễ sống và thánh dâng lên cho Chúa. (Jesus saves us and gives us hope, not for us to continue living “business as usual” or just enjoy many life comforts, but to be a living and holy sacrifice to God.)

 

> Phaolô mượn hình ảnh ở trong thời Cựu Ước, khi các thầy tế lễ trong đền thờ thường xuyên giết những con vật, như là chiên, dê, hay bò tơ… làm của tế lễ dâng lên thờ phượng Đức Chúa Trời. (Paul borrowed a picture in the Old Testament - when the priests daily killed lambs, goats, calves to make sacrifices to worship God.)

> Tuy rằng ngày xưa của tế lễ được Chúa chấp nhận bởi những con sinh vật chết, nhưng bây giờ sau khi Chúa Giê-su là Chiên Con Đức Chúa Trời đã đến, chết và sống lại… thì Phaolô dạy bây giờ c/ta phải dâng của tế lễ sống, chính là đời sống của mỗi c/ta. (Although in the Old Testament, God accepted dead animals to be the sacrifices; today, after Jesus died and was raised to life, Paul taught that we NOW must offer living and holy sacrifices.)

 

> Ngày xưa, trước khi gặp Chúa - Phaolô cũng sống rất nóng cháy trong sự bênh vực cho tôn giáo của mình, đến nỗi ông đã từng đi khắp nơi bắt bớ Hội Thánh Chúa Giê-su, đem con dân Chúa giam vào tù, ra lệnh ném đá giết Êtiên là một trong những chấp sự đầu tiên, nhưng những việc chết này Phaolô bây giờ chỉ xem “… như lỗ lã, … như rác rến để có thể được Ðấng Christ, Con Đức Chúa Trời.” (In the past, Paul used to live with a passion for his Jeiwsh religion – he went to many places persecuting Christians: putting them in jails, gave an order to kill Stephen – but he now knew that all of those labors were dead works – they were trash to throw away so that he may gain Christ.)

> C/ta ngày xưa cũng vậy, chìm đắm trong những việc chết, chỉ dẫn c/ta đến sự hư mất đời đời mà thôi, cho đến khi c/ta gặp được Đấng Sống, và nay sống một cuộc đời mới, không như cũ nữa. (We were the same way in the past – deep into sinning, all our efforts are dead works; but now we met the living Lord, to begin living a new life.)

> Phaolô dạy - bởi sự thương xót của Chúa mà ngày xưa c/ta sống dưới quyền của sự chết và những việc làm của nó, nhưng bây giờ được đổi mới, để sống một cuộc đời mới trong Đấng Christ. (Paul said by the mercy of God, we are no longer living an old life, but a new life in Christ.)

# Không có hình ảnh nào đẹp bằng nghi lễ Báptêm, bày tỏ sự bắt đầu của đời sống mới này, mà mỗi người tin nhận Chúa vâng lời nhận lấy, như có chép trong Rôma 6:4“Vậy qua phép báp-têm, chúng ta được chôn với Ngài trong sự chết của Ngài, để như Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Ðức Chúa Cha được sống lại từ trong cõi chết thể nào, chúng ta cũng có thể sống một đời mới thể ấy.” (There is no better picture to illustrate this than “baptism” that a new believer receives to witness his/her new life in Christ, that is said in Romans 6:4 – “We were therefore buried with him through baptism into death in order that, just as Christ was raised from the dead through the glory of the Father, we too may live a new life.”)

> Vì có đức tin và có sự trông cậy, c/ta mới có thể sống làm của lễ sống và thánh cho Chúa ngày hôm nay. (Because we have faith in Jesus and a living hope in Christ, we now can live our life as a living and holy sacrifice offering to God.) 

 

 

II. Của Lễ

 

> Một đời sống làm của lễ sống và thánh nghĩa là sao? (So, what does it mean to live a lifestyle as a living and holy sacrifice to God?)

 

> Thứ nhất – 2 chữ “Của lễ” nói lên tấm lòng tận hiến cho Chúa, để Ngài làm Chủ đời sống của c/ta luôn. Đây có nghĩa là tôn Chúa làm Chúa của đời sống mình. (First, the word “sacrifice” describes a total devotion to God, allowing Jesus to have Lordship over our life.)

> Chúa Giê-su làm “CHÚA” của một người nghĩa là sao? (What does it mean Jesus is Lord of a person?)

> Vô số người tin Chúa nhưng lại “ngừng” ở đó, chỉ biết Ngài là Đấng “Cứu” mình, nhưng lại không hiểu phần theo sau - Ngài còn là “Chúa” của c/ta nữa. (So many Chrisitans believe that Jesus is their Savior, but not yet their Lord?)

 

> Nếu Chúa là Chúa thì “cái tôi” không còn làm chủ mình nữa. (If Jesus is Lord – that means “self” is no longer the boss in this life and body.)

> Người Chủ mới này phải là Chúa duy nhất, mà c/ta không thể “cộng” thêm, hay còn chứa những “chúa” nào được nữa, nghĩa là c/ta phải dứt khoát dẹp đi hết tất cả những “bàn thờ” của các tà thần. (If Jesus has Lordship over our life  - it means He must be the only One Lord, and we should have no other gods.)

 

# Một trong những Giáo Lý Căn Bản c/ta cần hiểu cho một người đã thật sự tin đó là trong Phục Truyền Luật Lệ 6:4“Hỡi I-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe: Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng ta, là Chúa có một không hai.” Một Chúa Ba Ngôi riêng biệt, chứ không phải 3 chúa. (One of the basic doctrines we all need to understand is that God is the only Lord, and there is no other before Him.)

> GLCB này cũng được phản ảnh trong sách Xuất Hành 20 luật pháp của Chúa – “Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán mọi lời nầy, 2 “Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, tức khỏi nhà nô lệ: 3 Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác.” (This doctrine reflects in His commandments as in Exodus 20:1-3 – “And God spoke all these words: 2 “I am the Lord your God, who brought you out of Egypt, out of the land of slavery. 3 “You shall have no other gods before me.”)

 

> Vấn đề của ngày nay là vô số người cơ đốc sống vẫn chưa nhận diện ra những “tà thần” khác bây giờ có trong nhiều hình dạng phức tạp, mà từ bỏ nó? Một số khác thì biết, nhưng vẫn cứng lòng chưa chịu dẹp nó đi? (The problem today is that many Christians have not recognized idols (other gods) - which can be in different sizes and shapes in order to get rid them.)

# Một trong những tà thần kiên cố khó bỏ được nhất trong cuộc sống xa hoa này, đó là lòng tham lam những thứ… như là từ tiền bạc, tình dục xấu xa, những thú vui quá đáng, danh vọng… (One of the most common and powerful idols in our life is “greediness” of money, immoral sexuality, sinful pleasures, and self-prestige and fame…)

 

> Thắc mắc tham lam là sao? Thế nào mới gọi là tham? (How do you define greediness?)

# Tham lam là khi c/ta bắt đầu vi phạm những điều răn Chúa cấm, hoặc chưa làm trọn những mạng lệnh Chúa giao. (We become greedy when we begin to break God’s laws, or not to fulfill His calling for our life.)

# Tỉ dụ như điều răn thứ 4 – “Giữ ngày nghỉ làm ngày thánh,” nếu c/ta chưa đặt ưu tiên để dành ngày thánh thờ phượng Chúa, nhưng ham lo làm việc thêm mà không cần phải làm, thì đã biết mình đang thờ tà thần Mamôn rồi? (For example, the 4th commandment taught us that we must keep the sabbath to be holy, to worship and give offering to God; but if we don’t care and get so busy with less important things in life… than we should know that we are greedy.)

> Ai trong c/ta cũng có chứa lòng tham lam, không nhiều thì ít, không tham cái này thì cũng tham cái kia; nhưng vấn đề ở đây là mỗi khi c/ta đọc lời Chúa, hay đi nhóm – c/ta có lắng nghe tiếng Thánh Linh cáo trách để c/ta nhận biết tà thần này mà từ bỏ không? (All of us is greedy for something; but the matter is that every time we read the Bible or go to church – do we hear the conviction of the Holy Spirit to acklowledge this and make adjustments?)

 

> Ai muốn từ bỏ các tà thần… thì phải thường xuyên học lời Chúa và cầu nguyện để có sự cáo trách của Chúa Thánh Linh mà nhận diện ra những “tà thần” đang nằm ngủ và làm tổ trong đời sống mình, để dẹp bỏ nó. (To recognize idols sleeping in our life, we must often read the Bible and be aware of the conviction of the Holy Spirit.)

# Trong Giăng 16:8 rõ ràng vai trò của Thánh Linh là gì? “Khi Ngài (Chúa Thánh Linh) đến (đã được ban cho rồi), Ngài sẽ cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công chính, và về sự phán xét.” (In John 16:8 said – “When the Holy Spirit comes (He already here in our heart), he will convict the world about sin, righteousness and judgment.)

> Ai trong c/ta cũng là tội nhân yếu đuối, c/ta cần nhờ cậy Chúa giúp đỡ; nhưng c/ta phải tìm đến với Ngài, để sống làm của tế lễ sống và thánh cho Chúa, không còn bị “rập khuông” điều khiển, sai khiến bởi những đòi hỏi hay mời mọc của đời này. (Everyone of us is weak, we need help from the Holy Spirit; but we must se ek Him to live our life as a sacrifice to God, by not allowing this world to mold/shape us to fit its ways and values.)

> Trong 1 Cô-rinh-tô 3:16 – Phaolô nhắc - “Anh chị em chẳng biết rằng anh chị em là đền thờ của Ðức Chúa Trời, và Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Trời đang ngự trong anh chị em sao?” và trên bàn thờ đó phải có những của lễ của một đời sống yêu mến Chúa, đức tin, tấm lòng tận hiến… dâng lên cho Chúa không? (Don’t you know that you yourselves are God’s temple and that God’s Spirit dwells in your midst? And on that temple altar, we should displace our devotion, faith, and love for our God… as holy sacrifices.)

 

> Dâng cả đời sống c/ta: phần thuộc thể, cũng như phần thuộc linh (cả hồn lẫn xác) trong đức tin làm của lễ sống và thánh, mà Phaolô làm chứng trong Galati 2:20 như sau – “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ðấng Christ; không phải là tôi sống nữa, nhưng Ðấng Christ sống trong tôi; và bây giờ tôi sống trong thân xác nầy là sống trong đức tin vào Con Ðức Chúa Trời, Ðấng đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi.” (Everything of our life now (Both body and soul) must become a living sacrifice to God, that Paul professed in Galatians 2:20 – “I have been crucified with Christ and I no longer live, but Christ lives in me. The life I now live in the body, I live by faith in the Son of God, who loved me and gave himself for me.”)

 

 

III. Của Lễ Sống

 

> Thứ hai - của lễ “Sống” nghĩa là sao? (Secondly, what is a living sacrifice?)

# “Sống” nghĩa là ngay bây giờ và luôn luôn, nếu còn hơi thở Chúa ban cho sống. (Living means NOW and ALWAYS, as long as we still have breaths.)

# A story of a young girl who was adopted by a missionary couple – she kept procrastinating (trì hoãn) to serve God until she got into an accident and laid on a hospital bed. Her adopted parents came to visit with a fresh bouquet of flowers (Bó hoa tươi và đẹp), but did not give to her until the 4th day when the flowers were already faded (héo tàn) and they explained: “Daughter - Your life is just like a fresh bouquet of flowers – serve God now, and don’t wait until it is faded away.”

 

> Sống bây giờ để làm gì? (What does it mean to live for God Now?)

# Làm những đầy tớ hầu việc Ngài. (It means now we are all God’s servants to do His wills.)

1) Trong Kinh Thánh Tân Ước có một chữ được nhắc đi tất cả 141 lần là chữ “doulos,” để nói đến vai trò của một người “đầy tớ.” (In the New Testament has a special Greek word – “doulos” to describe a servant.)

> Chữ “đầy tớ” này diễn tả ý nghĩa của một kẻ nô lệ, không có một quyền lợi riêng nào, hay tài sản gì hết. (“Doulos” means a bond-slave - who has no right of his own, and no possession – everything belongs to his master.)

2) Một chữ khác là chữ “diákonos” có nghĩa là kẻ hầu bàn, từ đó có chức vụ của những chấp sự, có  chép trong Công vụ 6. (Another word describing a servant is “Diakonos” meaning a “table waiter,” from that we have deacon role in Acts 6.)

> Nhiều khi c/ta không chịu hiểu c/ta được gọi làm đầy tớ, không phải chỉ có chức để “chỉ huy,” nhưng mà “cong lưng” xuống để chăm sóc, hầu bàn những người khác. (Many times we do not really understand our calling as servants, not just to lead, but also to serve at the tables.)

 

> C/ta hết thảy là đầy tớ của Chúa và là đầy tớ thì điều tự nhiên phải lo công việc của chủ mình, như vậy c/ta phải hiểu ý muốn của Chúa là gì để vâng lời làm theo. (WE all are God’s servants, and it is a common sense for servants to serve their master; so, if Jesus is my Lord then what are some things that I have to do?)

> Vài điều căn bản trong 4 khu vực qua để sống cho Chúa: (There are 4 areas that we must obey the Lord Jesus.)

 

a) Khu vực thứ nhất cho mỗi cá nhân (First area is for the individuals)

# 1 Têsalônica 4:3“Vì đây là ý muốn của Ðức Chúa Trời: anh chị em phải nên thánh, tức anh chị em phải tránh gian dâm.” Vì Chúa của c/ta là Thánh! (In 1 Thessalonica 4:3 said – “It is God’s will that you should be sanctified: that you should avoid sexual immorality;”)

# Chữ “Thánh” mang ý nghĩa được biệt riêng ra cho Chúa sử dụng. (The word “holiness” carries a meaning of “being separated and dedicated for God’s use.”)

# Một số quí vị hiểu chữ “sạch” là gì, vì quí vị dọn dẹp lau chùi nhà cửa, xe hơi, quần áo của mình mỗi tuần để giữ cho luôn được sạch sẽ, không bụi bặm; Ước gì c/ta cũng giữ đời sống tâm linh của mình sạch giống như vậy thì hay biết mấy? (Some of you understand the word “cleanliness,” because you always clean and keep your house and cars clean each week spotless; I wish if we can do the same for our life, so we can be a holy sacrifice offering to God.)

> Đời sống của c/ta có đang được “nên thánh,” biệt riêng ra ở giữa thế gian… để làm của lễ sống và thánh không, hay là mình đang “đi dẹo hai bên:” vừa Chúa, vừa phật; vừa Kinh Thánh, vừa các sách tử vi, sách báo có những hình ảnh ô dâm; vừa chân lý, vừa những triết lý của đời? Mà chưa “… hết lòng, hết linh hồn, và hết trí tuệ yêu kính Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi?” (Is our life now totally sanctified & devoted for Jesus, or being wavering between two sides – God and Mammon/money; Jesus and buddha, or Bible and horoscope blooklet?)

 

b) Khu vực thứ hai trong gia đình (Second area is in the family)

# Trong Côlôse 3 dạy ý muốn của Chúa trong gia đình của c/ta là gì? “Hỡi người làm vợ, hãy thuận phục chồng mình, như thế mới thích hiệp trong Chúa. 19 Hỡi người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình và chớ đối xử cay nghiệt với nàng. 20 Hỡi người làm con, hãy vâng lời cha mẹ mình trong mọi sự, vì ấy là điều đẹp lòng Chúa. 21 Hỡi những người làm cha mẹ, đừng gây cho con cái mình bực tức, kẻo chúng nản lòng.” (Colossians 3 teaches God’s will for our families – “Wives, submit yourselves to your husbands, as is fitting in the Lord. 19 Husbands, love your wives and do not be harsh with them. 20 Children, obey your parents in everything, for this pleases the Lord. 21 Fathers, do not embitter your children, or they will become discouraged.”)

> Tại sao có biết bao nhiêu những nan đề trong cuộc sống gia đình của c/ta? (Why do we have so much family problems today?)

# Bởi vì chưa để Chúa làm Chúa của gia đình mình, mà vâng lời làm theo những mạng lệnh của Chúa đã dạy. (No need to do a detail survey to know – it’s just simply because we have not placed Jesus is the Lord of our families by obeying His teachings.)

 

c) Khu vực thứ ba là trong Hội Thánh Chúa (Third area is in Jesus’ church)

# 1 Phiêrơ 4:10“Mỗi người hãy lấy ơn mình đã nhận phục vụ lẫn nhau, như những người quản lý giỏi, khéo sử dụng các ân tứ của Ðức Chúa Trời.” Đúng lúc, đúng thái độ, đúng cách… như là một số quí bà nấu ăn đúng vị vừa ăn, hết chỗ chê? (1 Peter 4:10 – “Each of you should use whatever gift you have received to serve others, as faithful stewards of God’s grace in its various forms.)

# Những người CEO giỏi của các hãng xưởng lớn đều là những người biết rõ tài nguyên của mình là gì, là ai, ở đâu, và biết đem ra sử dụng đúng thời cơ; thì người tín đồ làm quản lý giỏi cũng phải biết những ơn mình có, và khéo đem ra sử dụng đúng lúc, đúng thái độ, đúng cách, để xây dựng nhà Chúa. (Good CEO of many companies are always those who know well where are their valuable resources to utilize; So do God’s people as good stewards – must know and use our spiritual gifts to serve God and His church.)

> Quí vị có đã khám phá ra ơn của mình có và đem ra sử dụng mà không phí phạn chưa? (We must not waste our gifts, but discover & use them to build up God’s kingdom – that is God’s will.)  

 

d) Khu vực rộng nhất ở ngàoi là cho thế giới (The fourth largest area is the world)

# 1 Peter 3:15 – “… hãy tôn thánh Ðấng Christ và tôn Ngài làm Chúa trong lòng anh chị em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời mọi kẻ chất vấn về hy vọng của anh chị em, nhưng hãy đối đáp với thái độ khiêm tốn và kính trọng.” (… in your hearts revere Christ as Lord. Always be prepared to give an answer to everyone who asks you to give the reason for the hope that you have. But do this with gentleness and respect,)

> C/ta mỗi người phải sẵn sàng câu chuyện của đời mình đã gặp được Chúa Giê-su thể nào, để làm chứng cho người người thắc mắc về đạo. (We must be ready with “My Story” to share with others.)

[Phải có sẵn một sách Kinh Thánh nhỏ bỏ túi và những tài liệu chứng đạo bỏ sẵn trong xe. Có cả tiếng Spanish và Chinese nữa.]

 

> C/ta có thật đang sống và dâng của lễ sống cho Chúa không mỗi ngày, hay chỉ vài tiếng đồng hồ mỗi Chúa Nhật thôi không, mà lại chẳng đếm xỉa gì đến những mạng lệnh của Chúa? (Are we offer a living sacrifice to God everyday, or just few hours each Sunday?)

 

 

IV. Của Lễ Sống và Thánh

 

> Thứ ba - của lễ sống và “thánh” nghĩa là sao? (Thirdly, the living sacrifice should be holy.)

> Tìm được ở đâu những tiêu chuẩn thánh khiết? (Where can we find things that are holy/pure and acceptable to God?)

# Đương nhiên không phải trên Internet hay những trang Facebook nhảm nhí, nhưng Philíp 4:8“Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều cho chơn thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thánh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến,” đó là lời hằng sống của Chúa. (Not on the Inetrnet or worldly Facebook, but in Phillipians 4:8 said - “…. brothers and sisters, whatever is true, whatever is noble, whatever is right, whatever is pure, whatever is lovely, whatever is admirable—if anything is excellent or praiseworthy—think about such things,” and this is the word of God – the Bible)

> Không phải biết thôi, nhưng c/ta phải cẩn thận làm theo đúng tiêu chuẩn của Chúa có chép trong “quyển sách luật pháp” gọi là Kinh Thánh. (Not just knowing the Bible, but we must carefully put Jesus’ teachings in practice everyday.)

 

> Rôma 12:2 dạy c/ta phải biến đổi tâm trí mình, nhắm đến những đường lối của Chúa. (We must let our mind to focus on God’s ways.)

# Trong Côlôse 3:1-2 sứ đồ Phaolô giải thích cho thấy đời sống mới có sự thay đổi lòng và tâm trí chuyển hướng 180 độ (U-turn)… bây giờ tìm kiếm và ham muốn những sự ở trên trời… chứ không như ngày xưa chỉ biết đeo đuổi những sự ở dưới đất mà thôi - “Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất (In Colossians 3:1-2 – Paul said our mind must be transformed 180 degree, by “… setting your hearts and minds on things above, where Christ is, seated at the right hand of God… not on earthly things.)

 

> Điều thánh thuộc của Chúa là trọn vẹn, nghĩa là c/ta không thể xen vào sự suy luận riêng của mình, diễn ý mà làm vừa lòng mình. (Holiness does not allow us to slip in our own will and reason to please self.)

> Một người thánh sống theo lời Chúa thì không bao giờ lấy lời Chúa để làm vừa ý mình. (A person living a holy sacrifice offering for God would never use God’s word to satisfy “his stomach.”)

# Quí vị có biết là mỗi Chúa Nhật có đầy những người chỉ muốn nghe giảng “được phước, được chữa lành, được thành công, được hết nợ nần,” nhưng lại không muốn nói đụng đến 2 chữ “tội lỗi,” hay đề cập đến phước lành lớn nhất của Chúa ban cho là sự chết của Con Ngài ở trên cây thập tự gía?

 

> Rôma 12:2 còn nhắc c/ta phải cẩn thận học lời Chúa và thử làm theo để phân biệt được ý muốn tốt lành của Ngài, thì đời sống của c/ta mới thật là một của lễ sống và thánh. (We must study God’s words, and carefully test them… to discern the good will of God to be truly a living and holy sacrifice.)

> Một câu hỏi rất nhiều con cái Chúa hay hỏi: “Làm sao biết được ý Chúa cho mình?” (One of the most common questions Christians often ask is - “How do I know God’s will for my life – He has not appeared to me & tell me yet?”)

# Hãy học kỹ lời Chúa, cầu nguyện thường xuyên, tự xét thái độ của mình, mà nếu Chúa chưa hiện ra, thì cứ thử đi thì biết ngay có phải là ý Chúa hay là ý người. (Carefully study God’s word, pray always, check your motive, and if God has not appeared to tell you yet… then just test it and God will let you know His will or not.)

 

> C/ta đến nhóm thờ phượng mỗi tuần với thái độ nào? (What kind of attitude we come to worship God each week?)

a) Lòng có muốn hầu việc Chúa không? (Does your heart want to serve God/Jesus?)

b) Cầu nguyện tha thiết? (Do you pray earnestly to have a willingness to serve God?)

c) Để ý cơ hội và lắng nghe những lời mời gọi? (Do you pay any attention for the opportunities and calling from God?)

d) Điều cuối cùng - Có dám thử làm không, để phân biết thế nào là ý Chúa hay ý người? (Do you plan to go home and dare to test out God’s will?)

# Mua thứ gì c/ta cũng thử kỹ càng: từ cái áo đến trái mít, nhưng ý Chúa thì không muốn thử sao?

 

----------------------------

> C/ta có thật đang mong ước được làm của lễ sống và thánh cho Chúa không? (Do you have a desire to be a holy and living sacrifice for God?)

> Có đáng để c/ta tận hiến cuộc đời mình làm của lễ sống và thánh cho Chúa không? (Is it worth-ed to be a God’s servant?)

# Chắc chắn rồi, vì Chúa đã cho c/ta tất cả. (Yes – because He gave Himself for us.)

 

> Do you know about a missionary named Wìliam Borden?

# He left his wealthy inheritance from his family which was a rich silver mining (mỏ bạc) company and became a missionary – But William died young at 25 years old in Egypt while trying to learn Arabic to reach out to Muslisms in China.

> Many people asked – “Was it a wasted life?”

> No – His life has inspired so many people later who commit to follow Jesus with the whole heart devotion because in his total devoted life to God.

> After his death, people found 3 simple phrases in the back of his Bible: No Reserves. No Retreats. No Regrets. (Không do dự, không thối lui, và không hối tiếc.)

# When the news of William Borden's death was cabled back to the U.S., the story was carried by nearly every American newspaper. And a journalist (nhà báo) wrote about his biography (tiểu sử) - "A wave of sorrow (ngọn sóng buồn đã đến khắp thế giới) went around the world… Borden not only gave (away) his wealth, but himself, in a way so joyous and natural (tận hiến trong sự vui mừng và phải lẽ) that it (seemed) a privilege (đặc ân) rather than a sacrifice."

> Was Borden's untimely death a waste? Not in God's perspective.

> It is a priviledge to be a Living & Holy Sacrifice offering our life, heart and soul to our God and Jesus Christ… with No Reserves. No Retreats. No Regrets.

 

-----------------------

> Sau Phục Sinh tưng bừng (hát Giêhôva Nissi) rồi bây giờ còn gì nữa không? (Easter passed us – but is there any thing else? We sang “Jehovah Nissi” – do we truly experience “victory and transformation?” or staying the same?)

# Được cứu rồi có phải là hết không? Hội Thánh Chúa cần thức dậy – Chúa Giê-su đã sống lại rồi. (The church of Jesus needs to be awakened – He is alive today.)

# C/ta phải sống với cái nhìn mới – Tôi sẽ là của lễ sống và thánh cho Chúa từ đây, khắp nơi tôi đi, mọi lời tôi nói, tất cả mọi việc tôi làm, vì Chúa thật đang “sống trong lòng này!” (Let’s encourage one another to offer our life as a living and holy sacrifice for God… to truly proclaim that “I know the living Lord Jesus lives and He lives within my heart.)

 

 

------------------- Lời Mời Gọi 

 

> Lễ Phục Sinh đối với tôi giống như ngày đầu của một năm mới, bắt đầu một cuộc đời mới bước đi theo Chúa.

> Từ đây đời sống, tâm trí và tầm nhìn của mình phải được biến đổi… sanh những mầm non mới, chứ không thể nào cứ còn cũ hoài.

> Sự biến đổi trong tâm trí mình về một cuộc đời tận hiến cho Chúa… làm của lễ sống và thánh.

 

> Của lễ” biểu hiệu cho một tấm lòng tận hiến tôn Chúa làm Chúa duy nhất đời sống mình, không còn các thần nào nữa.

> Của lễ “sống” nghĩa là hiểu rõ ý muốn của Chúa cho mình là gì và vâng lời làm theo ngay bây giờ và luôn mỗi ngày.

> Của lễ sống và “thánh” nghĩa là được biệt riêng ra không để bị rập khung trong những thói tục của thế gian, nhưng sống cẩn thận thử làm theo lời Chúa dạy, để phân biệt được ý Chúa cho mình là gì, và sống một cuộc đời làm vui lòng Ngài.

 

> Hãy nhờ cậy Thánh Linh luôn, Ngài đang ở nơi này, đang ở trong lòng này để giúp đỡ hết thảy c/ta có thể sống một cuộc đời là của lễ sống và thánh cho Chúa.

# Bàn thờ trong đền thờ thân xác này có chúa nào cần Thánh Linh giúp dẹp bỏ sạch không?

# Trên bàn thờ đó có những của lễ nào c/ta cần tận hiến cho Chúa không?

 

> Mong mọi người trong c/ta sẽ trả lời với Chúa Giê-xu sáng nay: “Vâng! Con yêu Chúa!”… và rồi c/ta ra về hứa nguyện sẽ là một của lễ sống và thánh cho Chúa mỗi ngày, trong đời sống cá nhân, gia đình, Hội Thánh, và cho thế giới.

 

> We must live as a living and holy sacrifice to God everyday… to show the world that we do not worship dead idols, but the Living Lord Jesus Christ!