Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 6

Bên Bờ Giếng




Có một ngôi làng kia nằm trong vùng Sa-ma-ri, giữa Ga-li-lê và Giu-đê. Nếu các em nhìn vào bản đồ Palestine thì sẽ thấy rõ. Cũng như hầu hết những làng mạc ở thôn quê, ngôi làng này nhỏ và nghèo, lại nằm ở một nơi xa xôi, vắng vẻ, chỉ có vài mươi căn nhà nhỏ. Dân trong làng sống âm thầm hết ngày này qua ngày khác. Họ phải làm việc vất vả mới có đủ ăn. Trong làng chẳng có gì đặc biệt, ngoại trừ cái giếng cổ xưa ở giữa làng.
Giếng nước này của ông bà tổ tiên để lại đã mấy ngàn năm. Người ta tin rằng ông Gia-cốp, cháu nội của Áp-ra-ham, tổ tiên của người Do Thái, đã đào cái giếng này và để lại cho Giô-sép vì ông thương Giô-sép nhất nhà. Dân trong làng hãnh diện vì được thừa hưởng cái giếng nước của ông bà để lại.
Giếng nước trong làng là nơi các bà các cô đến xách nước đem về nhà dùng. Vì khí hậu nóng nực nên họ thường ra giếng múc nước vào lúc sáng sớm hay chiều tối. Người vùng đó không gánh nước hay xách nước trong thùng như chúng ta. Họ đựng nước trong những cái bình bằng sành rồi vác trên vai hoặc đội trên đầu. Trong khi chờ lấy nước, mấy người đàn bà thường tụm năm tụm ba trò chuyện với nhau. Trong làng có một người đàn bà nọ, có đời sống không mấy tốt đẹp, nên mỗi khi bà ra giếng xách nước, mọi người thường xầm xì, chỉ chỏ làm bà rất khó chịu.
Người trong làng không thích nói chuyện với người đàn bà đó vì họ biết bà đã có năm đời chồng, và người mà bà hiện đang sống chung cũng không phải là chồng của bà. Vì đời sống đạo đức của bà như thế nên người trong làng đều khinh khi và tránh xa. Tội nghiệp người đàn bà đó, vì không chịu nổi cặp mắt xoi mói của người chung quanh nên bà thường ra giếng múc mước vào giữa trưa, là lúc trời nắng nóng, không ai dám đi ra ngoài.
Một ngày kia, Chúa Giê-xu và các môn đệ từ Giu-đê trở về Ga-li-lê. Họ phải đi ngang qua Sa-ma-ri. Khi đến ngôi làng nhỏ nói trên, Chúa thấy mỏi mệt nên Ngài đến bên giếng nước ngồi nghỉ. Trong khi đó các môn đệ đi vào làng tìm mua thức ăn. Lúc đó vào khoảng giữa trưa.
Chúa ngồi nghỉ một lát thì người đàn bà kia ra giếng xách nước. Thấy có người lạ ngồi bên giếng có lẽ bà cũng ngại ngùng lắm nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên, yên lặng múc nước. Khi bà vừa kéo lên được một gàu nước thì Chúa nói: "Bà cho tôi xin một miếng nước." Người đàn bà giật mình, nhìn Chúa và nói: "Ủa, ông là người Do Thái mà lại xin uống nước nơi tôi là một người đàn bà Sa-ma-ri sao?" Bà nói như thế vì người Do Thái không bao giờ làm quen hay nói chuyện với người Sa-ma-ri. Người Sa-ma-ri và người Do Thái cùng một ông tổ mà ra, nhưng người Sa-ma-ri là do những người Do Thái lấy vợ lấy chồng ngoại quốc sinh ra, nên dần dần không phải là Do Thái chính gốc nữa. Vì lý do đó, người Do Thái xem thường người Sa-ma-ri.
Hơn nữa, theo phong tục Do Thái thời đó, đàn ông và đàn bà ít khi nào nói chuyện với nhau ở nơi công cộng. Nhất là nếu không quen biết thì không bao giờ nói chuyện với nhau. Bây giờ tự nhiên Chúa làm quen trước và xin uống nước nên người đàn bà ngạc nhiên lắm. Bà nghĩ: "Ngay cả mấy bà trong làng còn không thèm nói chuyện với mình, huống gì là các ông. Vậy mà người đàn ông này, là người Do Thái chính gốc, lại nói chuyện với mình." Lâu nay bà vẫn bị mọi người khinh rẻ, không ai muốn đến gần hỏi chuyện. Bây giờ người lạ này lại làm quen trước nên bà ngạc nhiên lắm.
Người đàn bà không biết rằng Người vừa xin bà cho uống nước là Chúa Giê-xu, Đấng Cứu Thế mà bao nhiêu người đang mong đợi. Chúa Giê-xu trả lời: "Nếu bà biết điều mà Đức Chúa Trời sẽ cho và biết người xin uống nước là ai, thì bà sẽ xin người ấy nước uống và người sẽ cho bà nước hằng sống." Người đàn bà nhìn Chúa, vẻ nghi ngờ. Bà hỏi: "Thưa ông, giếng thì sâu mà ông không có gì để múc, làm sao ông có nước hằng sống được? Tổ tiên chúng tôi đã uống giếng nước này, tất cả con cháu trong dòng họ cũng vậy, chẳng lẽ ông lớn hơn tổ tiên chúng tôi sao?" Chúa Giê-xu trả lời: "Ai uống nước giếng này vẫn còn khát mãi, nhưng ai uống nước của tôi cho thì sẽ không bao giờ khát nữa. Nước của tôi cho sẽ trở thành một mạch nước trong người đó, tuôn ra cho đến sự sống đời đời."
Nghe Chúa nói có một thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa, người đàn bà thích quá liền thưa: "Xin ông cho tôi nước đó để tôi không khát và không phải đến đây múc nước nữa." Người đàn bà không hiểu nước hằng sống mà Chúa Giê-xu nói là nước gì, nhưng bà nghĩ, nếu có nước đó, bà sẽ không phải ra giếng mỗi ngày nữa.
Chúa Giê-xu muốn nói chuyện thêm với người đàn bà nên Ngài bảo: "Bà về gọi chồng bà ra đây!" Người đàn bà trả lời: "Dạ thưa, tôi không có chồng." Chúa khen: "Bà nói bà không có chồng là đúng, vì bà đã có năm đời chồng, còn người mà bà đang sống chung bây giờ không phải là chồng bà. Bà rất là thành thật!" Thấy Chúa Giê-xu nói đúng tất cả về quá khứ của mình, người đàn bà phục lắm, nên thưa: "Chắc ông là một nhà tiên tri phải không, vì ông biết rõ mọi việc?" Xong bà nói lảng sang chuyện khác. Bà nói: "Tổ tiên chúng tôi thờ Đức Chúa Trời trên núi này, nhưng người Do Thái lại nói là phải thờ phượng Chúa tại thành Giê-ru-sa-lem." Chúa Giê-xu nói: "Bà hãy tin lời tôi. Đến một lúc kia, người ta sẽ không thờ Đức Chúa Trời trên núi này, cũng không thờ tại Giê-ru-sa-lem nữa. Người Sa-ma-ri thờ lạy điều họ không biết, còn chúng tôi thờ lạy điều chúng tôi biết, vì sự cứu rỗi từ người Do Thái mà đến. Đã đến lúc những người thờ phượng thật, phải lấy tấm lòng thành và lẽ thật mà thờ lạy Đức Chúa Trời. Đó là những người thờ phượng mà Chúa mong muốn. Đức Chúa Trời là Thần Linh nên ai thờ phượng Ngài thì phải lấy tấm lòng chân thành mà thờ lạy."
Thấy Chúa nói về vấn đề thờ phượng, người đàn bà muốn tỏ ra mình là người hiểu biết, bà nói: "Tôi biết Chúa Cứu Thế phải đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ chỉ dạy cho chúng ta mọi việc." Lúc đó, Chúa Giê-xu mới nói cho người đàn bà biết Ngài là ai. Chúa nói: "Tôi chính là Chúa Cứu Thế."
Ngay lúc đó, các môn đồ trở lại. Họ ngạc nhiên thấy Chúa nói chuyện với một người đàn bà Sa-ma-ri, nhưng họ không dám nói gì. Còn người đàn bà, nghe Chúa nói Ngài là Đấng Cứu Thế, thì mừng quá, bỏ bình nước bên giếng, chạy vào trong làng gọi mọi người và nói: "Các ông bà ơi, mau ra đây, tôi đã gặp Chúa Cứu Thế!" Người trong làng kéo nhau ra gặp Chúa và có nhiều người tin Ngài. Họ tin vì lời chứng của người đàn bà và vì họ được nghe lời Chúa dạy và biết rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế.
Từ khi tin nhận Chúa, người đàn bà tội lỗi đã được Chúa tha thứ và được trở nên con của Ngài. Đời sống của bà thay đổi hẳn. Bà không còn mặc cảm tội lỗi, không còn trốn tránh người chung quanh. Trái lại, bà hăng hái đi nói cho mọi người biết Chúa Giê-xu chính là Đấng Cứu Thế mà họ đang trông đợi. Nhờ lời chứng của bà, nhiều người đã tin nhận Chúa.
Chúa Giê-xu đã đến để tìm và cứu người có tội. Theo tiêu chuẩn của Chúa, tất cả mọi người đều có tội. Các em cũng đã phạm tội với Chúa, những tội như không vâng lời cha mẹ, nói dối, ganh ghét, tham lam, ích kỷ và không kính thờ Chúa là Đấng đã tạo dựng nên các em. Nếu hôm nay các em bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Đấng Cứu Đời, Ngài sẽ tha tội cho các em và nhận các em làm con cái của Ngài. Các em có muốn được làm con của Chúa không? Hãy cầu nguyện, mời Chúa ngự vào lòng các em ngay hôm nay.
CÂU HỎI
1. Ngôi làng trong câu chuyện này nằm ở đâu?
2. Tại sao người trong làng hãnh diện về cái giếng của họ?
3. Chúa Giê-xu đã nói chuyện với ai bên giếng?
4. Điều gì đã xảy ra cho người đó?
5. Nếu muốn được Chúa tha thứ tội, các em phải làm gì?