Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 16

Ngày Vinh Quang




Giả sử trong trường của các em có một thầy giáo hay cô giáo mà các em rất yêu thương và quý mến. Nhưng một ngày kia người đó bỗng nhiên bị đau nặng hay bị tai nạn và chết một cách bất ngờ thì chắc là các em buồn lắm phải không? Khi Chúa Giê-xu bị bắt và bị đóng đinh trên cây thập tự, các môn đồ của Chúa cũng buồn như vậy. Thật ra, họ sửng sốt, kinh hoàng, lo lắng và đau buồn vì vị thầy kính yêu của họ đã bị bắt và bị xử tử một cách bất ngờ.
Sau ngày Chúa Giê-xu chết, các môn đồ họp lại trong một căn nhà nọ. Mọi người đều yên lặng, buồn rầu; chẳng ai nghĩ đến chuyện ăn uống, cũng không ai buồn nói chuyện với ai. Họ không ngờ sự việc xảy ra quá mau và quá khủng khiếp như vậy. Mới tuần trước đây, Chúa còn giảng dạy, còn ngồi ăn chung bàn với họ mà hôm nay Ngài đã nằm yên trong mộ. Lòng các môn đồ tan nát, họ không thể chấp nhận một sự thật quá đau buồn như thế. Vị thầy mà họ kính yêu tự nhiên bị bắt và bị giết một cách oan ức. Các môn đồ không những buồn rầu, nhưng còn lo sợ nữa, vì chính họ cũng có thể bị bắt và bị xử tử giống như Chúa vậy.
Chúa Giê-xu bị bắt vào tối thứ năm. Người ta xử Ngài suốt đêm hôm đó cho đến sáng sớm thứ sáu. Sau đó họ tuyên án tử hình và đem Ngài ra đồi sọ đóng đinh. Lúc Chúa bị đóng đinh là 9 giờ sáng, đến 3 giờ chiều thì Ngài trút linh hồn. Và tối hôm đó, tức là tối thứ sáu, Chúa đã nằm yên trong mộ. Mọi việc xảy ra quá nhanh, làm các môn đồ kinh hoàng, sửng sốt. Thế rồi tối thứ sáu và ngày thứ bảy tiếp theo đó các môn đồ trốn trong một căn nhà kia, với cửa nẻo khóa lại kỹ càng. Không khí trong nhà đó thật là buồn bã và căng thẳng. Đối với các môn đồ, thế giới như đã sụp đổ hoàn toàn. Họ buồn rầu và lo lắng. Buồn vì thầy của họ đã bị giết một cách đau đớn và lo vì không biết ngày mai đây sẽ có chuyện gì xảy đến cho chính họ.
Thế rồi ngày thứ nhất trong tuần đã đến, tức là ngày Chúa Nhật bây giờ. Sáng hôm ấy, lúc trời còn mờ mờ, có mấy người đàn bà rủ nhau đi thăm mộ Chúa. Họ mang theo thuốc thơm để tẩm xác Ngài. Mấy người đó là Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ và Sa-lô-mê. Vì thương Chúa, mấy ngày nay họ cứ khóc mãi, đến nỗi mắt người nào cũng sưng húp lên. Vì quá buồn, không ngủ được, có lẽ mấy người đàn bà đã thức suốt đêm, chờ trời sáng để đi thăm mộ Chúa. Thầy của họ đã chết, họ không còn được vinh dự lo cho Ngài thức ăn, nước uống hay quần áo nữa. Bây giờ, muốn tỏ lòng kính yêu Chúa, điều duy nhất mà họ có thể làm là lấy thuốc thơm tẩm vào xác Ngài.
Mấy người đàn bà dắt nhau đi qua con đường trải đá trong làng. Ra khỏi cổng làng, họ tiếp tục đi trên con đường dẫn ra nghĩa địa. Họ không cười đùa vui vẻ như những ngày trước nhưng chỉ bước đi trong yên lặng. Bỗng một người hỏi: "Không biết ai sẽ lăn tảng đá chận cửa mộ ra cho mình nhỉ? Tảng đá đó nặng lắm làm sao mình lăn nổi?" Chẳng ai trả lời vì chẳng ai có câu trả lời.
Mấy người đàn bà cứ tiếp tục đi. Khi gần đến mộ Chúa, họ ngạc nhiên thấy tảng đá lớn chận cửa mộ đã nằm qua một bên. Không biết ai đã lăn nổi tảng đá đó. Nhưng vì trong lòng đang nôn nao muốn nhìn lại mặt Chúa, họ cũng không thắc mắc làm gì. Mộ của người Do Thái ngày xưa không giống như những ngôi mộ mà các em thấy ngày nay. Ngôi mộ thường là một cái hang đá lớn, người sống có thể bước vào. Trong đó người ta để xác chết có tẩm thuốc thơm. Thỉnh thoảng người thân trong gia đình lại đến, đổ thêm thuốc thơm lên xác chết.
Các môn đồ vì quá lo sợ và buồn rầu nên đã quên mất lời Chúa phán trước khi chịu chết. Mấy người đàn bà cũng vậy, họ không còn nhớ gì cả. Nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ quên họ. Ngài sai một sứ giả đặc biệt đến để an ủi họ và nhắc cho họ nhớ lời Ngài. Thấy cửa mộ mở toang, mấy người đàn bà bước vào, nhưng không thấy xác Chúa đâu cả. Trái lại, họ thấy có một thiên sứ mặc áo trắng như tuyết, đang ngồi ở chỗ mà Chúa đã nằm. Mặt thiên sứ tỏa hào quang sáng chói. Mấy người đàn bà sợ quá, run lên, xong họ quỳ xuống và cúi úp mặt xuống đất. Vị thiên sứ bèn nói: "Đừng sợ, các bà tìm Chúa Giê-xu người Na-xa-rét mới bị đóng đinh hôm trước phải không? Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi! Hãy xem nơi Ngài đã nằm." Thấy mấy người đàn bà vẫn còn ngơ ngẩn, không hiểu, vị thiên sứ nói tiếp: "Các bà không nhớ là trước khi chịu chết Chúa nói rằng đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại sao? Hãy đi, nói với các môn đồ của Chúa rằng Ngài sẽ gặp họ tại Ga-li-lê, như Ngài đã bảo trước."
Khi vị thiên sứ nói dứt lời, mấy người đàn bà liền đứng lên, chạy thật mau ra khỏi mộ. Họ run sợ, sửng sốt, kinh hoàng, không hiểu hết được những điều họ vừa thấy và nghe. Dù vậy, vâng lời thiên sứ, họ chạy về báo tin cho các môn đồ. Các môn đồ không tin vì cho rằng mấy người đàn bà nói chuyện huyễn. Riêng Phi-e-rơ và Giăng chạy đến mộ và bước vào bên trong xem, thấy vải liệm nằm dưới đất. Hai người ra về, cũng không hiểu những gì họ đã thấy.
Trong số ba người đàn bà đi thăm mộ Chúa sáng hôm đó, có Ma-ri Ma-đơ-len là người đã được Chúa chữa khỏi bệnh quỷ ám. Chúa đã đuổi bảy quỷ dữ ra khỏi bà, vì thế bà biết ơn Chúa và hết lòng kính yêu Ngài. Từ khi được lành bệnh, Ma-ri Ma-đơ-len cùng với những người đàn bà khác, đi theo Chúa để hầu việc Ngài. Bà đã từ Ga-li-lê lên thành Giê-ru-sa-lem và ở đó trong những ngày cuối cùng Chúa. Bà đã theo Chúa lên đồi Gô-gô-tha. Trong khi các môn đồ khác chạy trốn, Ma-ri Ma-đơ-len đã cùng với mẹ của Chúa, đứng bên chân thập tự giá, chứng kiến lúc Ngài trút hơi thở cuối cùng. Khi người ta hạ xác Chúa xuống để chôn, Ma-ri Ma-đơ-len cũng đi theo để biết mộ Chúa ở đâu. Sau đó bà về, chuẩn bị hương liệu để tẩm cho xác Chúa.
Trước khi chịu chết, có lần Chúa dạy: "Người nào được tha thứ nhiều sẽ yêu mến nhiều." Đây chính là trường hợp của Ma-ri Ma-đơ-len. Được Chúa đuổi quỷ dữ ra khỏi đời sống và được Ngài tha thứ tất cả tội lỗi nên bà rất kính yêu Ngài. Khi thiên sứ báo tin Chúa đã sống lại rồi, có lẽ Ma-ri Ma-đơ-len đang buồn quá nên không nghe rõ lời thiên sứ. Hơn nữa, đó cũng

là một chuyện khó tin, vì lúc không thấy xác Chúa trong mộ, bà yên trí là đã có người lấy đem đi nơi khác.
Trong khi mấy người kia đi trở về nhà, Ma-ri vẫn quyến luyến bên mộ Chúa. Bà ở lại, đứng gần bên ngôi mộ mà khóc. Vừa khóc lại vừa nhìn vào bên trong mộ, thấy có hai thiên sứ, một vị ngồi ở đằng đầu, một vị ngồi ở đằng chân. Thiên sứ hỏi: "Bà ơi, sao bà khóc?" Ma-ri trả lời: "Vì người ta đã dời xác Chúa tôi đi nơi khác, không biết họ để Ngài ở đâu!" Nói xong bà quay trở ra thì thấy Chúa Giê-xu đứng đó, nhưng có lẽ vì mắt Ma-ri đang đầy nước mắt nên bà không nhận ra Ngài. Chúa cũng hỏi: "Bà ơi, tại sao bà khóc? Bà tìm ai?" Ma-ri tưởng đó là người làm vườn nên nói: "Ông ơi, nếu ông là người đã đem xác Chúa Giê-xu đi nơi khác, xin làm ơn cho biết ông để Ngài ở đâu, để tôi đến đem về." Chính lúc đó Chúa gọi: "Ma-ri!" Giật mình vì người lạ này gọi đúng tên mình, Ma-ri quay lại nhìn, liền nhận ra đó là Chúa. Mừng quá, bà quỳ xuống và thưa: "Ra-bu-ni!", có nghĩa là "Thưa thầy!" Xong bà đưa tay ra định ôm chân Chúa, nhưng Chúa phán: "Đừng cầm giữ ta, vì ta chưa lên cùng Đức Chúa Cha. Nhưng hãy đi nói cho anh em ta biết rằng ta lên cùng Cha ta và Cha các ngươi, cùng Đức Chúa Trời ta và Đức Chúa Trời các ngươi."
Được nghe tiếng Chúa phán, nghe Ngài gọi chính tên mình và được nhìn rõ mặt Ngài, Ma-ri biết vị thầy yêu dấu của bà đã sống lại, không còn nghi ngờ gì nữa. Vì thế bà không khóc nữa nhưng tươi cười sung sướng. Vâng lời Chúa, bà hăng hái chạy đi tìm các môn đồ của Chúa để báo tin mừng. Gặp người nào bà cũng nói: "Chúa sống lại rồi! Chúa sống lại rồi! Chính tôi đã gặp Ngài!"
CÂU HỎI
1. Chúa Giê-xu bị bắt lúc nào và bị đóng đinh lúc nào?
2. Sau khi Chúa chết các môn đồ làm gì? Tại sao?
3. Những ai đã dậy sớm đi thăm mộ Chúa trong ngày Phục Sinh đầu tiên?
4. Ai là người được vinh dự gặp Chúa Phục Sinh trước nhất?
5. Sau khi chịu chết vì tội của loài người, Chúa Giê-xu đã sống lại, điều này cho ta thấy Chúa Giê-xu là Đấng như thế nào?