Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 8

Phụ Nữ trong việc thờ phượng

1Ti-mô-thê 2:9-15

9 Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá,

10 nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa.

11 Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng.

12 Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.

13 Vì A-đam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Ê-va.

14 Lại không phải A-đam bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi.

15 Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhơn đẻ con mà được cứu rỗi.

Trước khi đi vào chi tiết về vai trò phụ nữ trong thờ phượng, Phao-lô nói đến tư cách của người đàn ông trong câu 8 như sau: “8 Vậy, ta muốn những người đàn ông đều giơ tay tinh sạch lên trời, mà cầu nguyện khắp mọi nơi, chớ có giận dữ và cãi cọ.” Đây là thái độ và tư cách của một người ra mắt Chúa và thờ phượng Ngài. Trước tiên là tay phải tinh sạch, nghĩa là không làm việc gì giả mạo, dối trá hay nhơ bẩn. Sau đó, muốn lời cầu nguyện được Chúa nhậm thì phải giữ không được tức giận ai và cãi cọ với người nào. Đây không phải là vấn đề xã hội, nhưng là vấn đề ra mắt Chúa. Chúa là Chúa hoà bình, vì vậy ai muốn Chúa vừa lòng, cũng phải sống trong hòa bình với mọi người.

Sau đó Phao-lô quay sang nói về vai trò của phụ nữ.

Đây là một đoạn văn gây nhiều tranh cãi về thái độ của Phao-lô đối với phụ nữ. Các bà các cô nhiều khi đọc đến đây không muốn tiếp tục phục vụ Chúa nữa, hoặc là có khi phái nam dùng các câu này để hạ thấp vai trò của phụ nữ. Tuy nhiên chúng ta sẽ chia vấn đề làm hai phần và sẽ nói đến từng phần một.

1. Phần thứ nhất liên quan đến tư cách và thái độ của người phụ nữ trong việc thờ phượng Chúa và cách sinh hoạt hằng ngày.

Những chữ được nổi bật trong các câu này tương phản với những gì mà Phao-lô cho là diêm dúa và lòe loẹt, là: Ăn mặc gọn ghẽ, nết na, đức hạnh, việc thiện lành đối xứng với bện tóc, đeo vàng, châu ngọc và quần áo đắt tiền. Những câu này không giải thích thì ai cũng rõ là Phao-lô cho rằng việc trang phục thờ phượng Chúa phải thích đáng, không phải như những người tham dự các cuộc vui trong đời, vì trong các buổi đó, phụ nữ là mục tiêu cho người ta nhìn ngắm. Trong khi đó việc thờ phượng Chúa là chú trọng vào Chúa và người phụ nữ ăn mặc đơn giản nhưng không kém lịch sự, sẽ góp phần cho nam giới chú trọng vào Chúa nhiều hơn là vào những vẻ đẹp của phụ nữ.

Dĩ nhiên là trong buổi thờ phượng Chúa không ai có thể làm những việc thiện lành hay phô bày đức hạnh, nhưng đây là tư cách hằng ngày cho xứng đáng ra mắt Chúa.

Lời dạy này cần áp dụng một cách khôn ngoan và không ai nên trích các câu này để làm áp lực đối với vợ, con hoặc phụ nữ khác về y phục. Ta nên nhớ rằng đến trước mặt một vị quan quyền đời này, ta còn phải ăn mặc chỉnh tề, huống hồ ra mắt Chúa. Thi thiên đã dạy ta phải trang sức thánh mà ra mắt Chúa. Mọi người cần phải suy nghĩ để việc ra mắt Chúa được xứng đáng.

2. Vấn dề thứ hai nêu lên ở đây liên quan đến các lời dạy về yên lặng vâng phục, dạy dỗ, cầm quyền. Ta phải thấy ngay là nhiều lời dạy của Phao-lô có giá trị áp dụng ngay cho hoàn cảnh các Hội Thánh đương thời với các nan đề họ gặp. Theo một số nhà giải nghĩa Kinh Thánh thì Phao-lô dạy các điều này cho các Hội Thánh của những người sống trong bối cảnh Hi-lạp. Tại thành Ê-phê-sô có những tôn giáo mà việc thờ phượng có pha trộn với dâm ô và điếm đĩ. Nhiều nữ tế sư của các tôn giáo này trang phục diêm dúa để lôi cuốn đàn ông, vì vậy Hội Thánh của Chúa trong lúc đó không cho phép phụ nữ đứng lên phát biểu hay làm những chức vụ gì trong nhà thờ, vì có thể bị hiểu lầm như các nữ tế sư của các tôn giáo chung quanh. Việc giới hạn cần được dạy rõ để lúc ấy mọi người đều tuân phục các nhà lãnh đạo và đạo Chúa không bị xúc phạm.

Mặt khác, khi xét về vai trò của phụ nữ trong thời Chúa Giê-xu và Hội Thánh đầu tiên, ta thấy rất là quan trọng. Bà Ma-ri là mẹ phần xác của Chúa Giê-xu. Khi các môn đệ Chúa chạy trốn hết, tại chân thập giá, chỉ có Giăng và bốn phụ nữ. Ma-ri Ma-đơ-len là người gặp Chúa phục sinh đầu tiên và đi loan tin cho mọi người khác. Bà Bê-rít-sin cùng chồng là A-qui-la đã có công huân luyện cho nhà truyền giáo A-pô-lô. Ê-vô-đi và Sin-ti-cơ là những người phục vụ mà Phao-lô nên danh trong thư Phi-líp. Nhà truyền giáo Phi-líp có bốn con gái nói tiên tri. Phao-lô dạy Tít là trong Hội Thánh các bà cụ già phải dạy cho các thiếu phụ. Phao-lô còn ca ngợi công ơn giáo dục Ti-mô-thê của hai phụ nữ là Lô-ít và Ơ-nít. Còn nhiều phụ nữ khác được nêu danh trong các lá thư của Phao-lô cũng như của Giăng.

Như thế ta thấy việc phụ nữ tham gia vào mọi công tác truyền giáo như nam giới là chuyện thông thường, ngày xưa cũng như bây giờ. Tuy nhiên Phao-lô có ý nhấn mạnh về nhược điểm của phụ nữ là dễ bị cám dỗ phạm tội. Lời khuyên ở đây là, phụ nữ nên giữ đúng phẩm cách và bản chất của mình để tránh những cám dỗ và những điều có thể làm cho Hội Thánh bị mang tiếng là giống như các tà giáo đương thời. Lĩnh tụ Hội Thánh nên dành cho nam giới để việc điều hành Hội Thánh được mạnh hơn. Phụ nữ đóng vai trò giáo dục con cái và gia đình thích hợp hơn nam giới, đó là điều hiển nhiên.

Câu 15 là một câu gieo nhiều thắc mắc cho người đọc Kinh Thánh hơn cả.

Tuy nhiên ta để ý thì thấy rằng Phao-lô vẫn dạy trong hoàn cảnh của Hội Thánh vùng văn hoá Hi-lạp trong lúc đó, và ông khuyên phụ nữ nên chu toàn nhiệm vụ là vợ và làm mẹ thì sẽ tránh được những cạm bẫy tội lỗi trong xã hội và dù phải sinh sản đau đớn vì tội tổ tiên để lại, phụ nữ vẫn được cứu như nam giới, nếu các bà tiếp tục sống trong niềm tin, tình thương và đời sống thánh khiết. Câu: Nhân sinh con mà được cứu có thể dịch lại là: Dù phải chịu khổ sinh con cái, nhưng vẫn được cứu. Câu này không có nghĩa là hễ cứ sinh con cái thì được cứu. Vì trên đời có rất nhiều phụ nữ không có con, không thể vì thế mà họ không được cứu.

Bài học hôm nay dành cho phụ nữ, các bà, các cô nhiều hơn, ta cần nhớ:

1. Lúc nào phụ nữ yêu Chúa cũng phải sống trong tinh thần thờ phượng Chúa, và đừng thu hút người khác về vẻ đẹp bề ngoài, nhưng phải trau giồi đức hạnh, nết na, hiền thục và việc lành.

2. Phụ nữ cần sử dụng bản chất mềm mỏng chịu đựng của mình để chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng con cái và phục vụ đồng bào. Việc lãnh đạo nên dành cho nam giới.

3. Ba điều căn bản cho mỗi phụ nữ là có đức tin vững mạnh, có tình thương quảng đại và luôn luôn giữ đời sống thánh khiết.