Trang Chủ :: Chia Sẻ

BÀI 45

12:1-8 - CON NGƯỜI LÀ CHÚA NGÀY SA-BÁT

1 Lúc đó, nhằm ngày Sa-bát, Đức Chúa Jêsus đi qua giữa đồng lúa mì; các môn đồ đói, bứt bông lúa mà ăn. 2 Người Pha-ri-si thấy vậy, bèn nói cùng Ngài rằng: Kìa môn đồ thầy làm điều không nên làm trong ngày Sa-bát. 3 Song Ngài đáp rằng: Chuyện vua Đa-vít đã làm trong khi vua với kẻ đi theo bị đói, các ngươi há chưa đọc đến sao? 4 tức là vua vào đền Đức Chúa Trời, ăn bánh bày ra, là bánh mà vua và kẻ đi theo không có phép ăn, chỉ để riêng cho các thầy tế lễ. 5 Hay là các ngươi không đọc trong sách luật, đến ngày Sa-bát, các thầy tế lễ trong đền thờ phạm luật ngày đó, mà không phải tội sao?

6 Vả lại, ta phán cùng các ngươi, tại chỗ nầy có một đấng tôn trọng hơn đền thờ. 7 Phải chi các ngươi hiểu nghĩa câu nầy: Ta muốn lòng nhân từ, không muốn của tế lễ, thì các ngươi không trách những người vô tội; 8 vì Con người là Chúa ngày Sa-bát.

 

1. Tại sao “bứt bông lúa mà ăn” lại là “làm điều không nên làm trong ngày Sa-bát” (c. 1-2)?

2. Chúa Giê-xu trích câu chuyện vua Đa-vít trong Cựu Ước để cho thấy điều gì?

3. Xin cho một ví dụ về việc các thầy tế lễ trong đền thờ phạm luật ngày Sa-bát mà không phải tội (c. 5).

4. Xin cho biết hàm ý của Chúa Giê-xu trong câu 6.

5. Chúa Giê-xu muốn nhắn nhủ điều gì với người Pha-ri-si khi Ngài trích câu Kinh Thánh trong câu 7?

6. Xin cho biết kết luận của Chúa Giê-xu về ngày Sa-bát (c. 8).

 

Điều Răn Thứ Tư dạy: “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh... trong ngày đó... chớ làm công việc chi hết” (Xuất 20:8, 10). Luật của Chúa như vậy nhưng người Do-thái đã thêm vào hàng chục điều khác nhằm xác định thế nào là công việc. “Không làm công việc chi hết” nghĩa là không làm những điều gì? Một trong những điều luật truyền khẩu cấm không được làm trong ngày Sa-bát là gặt lúa. Dưới con mắt của người Pha-ri-si, khi các môn đồ của Chúa bứt bông lúa mà ăn là họ đã vi phạm luật ngày Sa-bát cách nghiêm trọng vì họ chẳng những đã “gặt lúa” (bứt bông lúa) mà cũng đã “chuẩn bị thức ăn” nữa (“lấy tay vò đi,” Lu-ca 6:1). Theo luật truyền khẩu, người Do-thái không được nấu nướng trong ngày Sa-bát mà phải chuẩn bị từ ngày hôm trước. Người Do-thái trong thời Chúa Giê-xu đã vâng giữ luật cách máy móc và làm mất đi ý nghĩa của Ngày Yên Nghỉ. Luật ngày Sa-bát trở thành một gánh nặng (11:28) thay vì yên nghỉ. Giới Pha-ri-si thường tuân giữ những luật lệ khắt khe đó thật kỹ bề ngoài để hợm mình và lên án, buộc tội người khác. Họ cũng bắt đầu chống đối Chúa Giê-xu (9:34) và tìm mọi cách để bắt bẻ Chúa và môn đồ Ngài.

Chúa Giê-xu đã trả lời họ với những lý lẽ như sau:

1. Chúa trích câu chuyện vua Đa-vít và đồng bạn của ông ăn bánh thánh là bánh chỉ thầy tế lễ mới được phép ăn (I Sa 21:1-6). Câu quan trọng trong lời trích nầy là: Các ngươi há chưa đọc đến sao (c. 3). Các ngươi há chưa đọc đến sao hàm ý đây là lời Kinh Thánh với thẩm quyền mà người Pha-ri-si tin tưởng. Chúa muốn cho người Pha-ri-si thấy là trong câu chuyện nầy, luật nghi lễ đã được bỏ qua vì nhu cầu cấp bách và Kinh Thánh đã không buộc tội hay kết án Đa-vít về việc nầy. “Kinh Thánh ghi lại như vậy các ông không nhớ sao?” Đó là dụng ý của Chúa Giê-xu khi nhắc lại chuyện nầy.

2. Cũng theo luật về nghi lễ, trong thời Cựu Ước các thầy tế lễ có những trách nhiệm buộc phải làm trong ngày Sa-bát, chẳng hạn như dâng của lễ (Dân số ký 28:9). Chúa Giê-xu cho thấy dù các thầy tế lễ làm việc nầy trong ngày Sa-bát, họ không bị kể là phạm luật ngày Sa-bát.

3. Sau khi nêu hai ví dụ liên quan đến đền thờ, Chúa Giê-xu cho người Pha-ri-si thấy một điều quan trọng bắt đầu với câu: Ta phán cùng các ngươi (c. 6a). Chúa phán: Tại chỗ nầy có một Đấng tôn trọng hơn đền thờ (c. 6b). Mục đích của đền thờ là để cho người ta có thể thờ phượng Đức Chúa Trời qua của lễ. Chúa Giê-xu muốn cho người Pha-ri-si biết rằng Ngài mới là phương cách để con người thật sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu là Đấng Đức Chúa Trời sai xuống để qua đó con người đến với Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu vượt trên đền thờ, các thầy tế lễ và những nghi lễ của đền thờ. Nghĩa là dù cho người Pha-ri-si không đồng ý với hai điều Chúa vừa nói, họ phải biết rằng những luật lệ về đền thờ nói trên không thể nào so sánh với Chúa là Đấng tôn trọng hơn đền thờ.

4. Chúa Giê-xu cho thấy lỗi lầm của người Pha-ri-si là thái độ khe khắt thiếu yêu thương của họ. Một lần nữa, Chúa trích lời Kinh Thánh Cựu Ước, Ô-sê 6:6: Ta muốn lòng nhân từ không muốn của tế lễ (c. 7). Chúa Giê-xu hàm ý rằng dù cho các ngươi đúng đi nữa thì lên án, buộc tội, bắt bẻ người khác là thiếu lòng nhân từ là điều Đức Chúa Trời mong muốn hơn của tế lễ. Hơn nữa, đây là những người vô tội (c. 7b). Các môn đồ của Chúa không phải là những người cố ý làm việc trong ngày Sa-bát để phạm luật ngày Sa-bát mà chỉ làm điều họ được phép làm khi đi ngang qua đồng lúa mì (Phục truyền 23:25). Chúa Giê-xu nói: Phải chi các ngươi hiểu nghĩa câu nầy (c. 7a) hàm ý họ đã không hiểu nên mới trách các môn đồ của Ngài.

5. Với tất cả những lý lẽ trên, Chúa Giê-xu kết luận: Con Người là Chúa ngày Sa-bát (c. 8). Con Người không phải chỉ chung loài người nhưng là danh hiệu của Chúa Giê-xu. Chúa cho người Pha-ri-si thấy Ngài mới là Đấng có thẩm quyền tối hậu về ngày Sa-bát. Nguyên tắc của Chúa cho luật ngày Sa-bát là lòng nhân từ như chúng ta sẽ thấy trong câu chuyện Chúa chữa người teo tay tiếp theo (c. 9-14).