Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 338

Chuyện... Những Người Nữ Trong Giáng Sinh Xưa

*Kinh Thánh: Lu-ca 1: 26-28, 41-45; Lu-ca 2: 36-38

Mỗi năm một lần, những người tin Chúa, nói riêng và nhân loại trên khắp hoàn vũ nói chung, đều hân hoan đón mừng ngày Thiên Chúa giáng trần vào những ngày cuối của năm.

Nhân mùa Giáng Sinh, chúng ta dành thì giờ để nói chuyện về những người nữ xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa.

Trong dịp Giáng Sinh năm xưa, có nhiều những nhân vật nữ xuất hiện trước và sau đêm Chúa giáng sinh để lại cho chúng ta những bài học thuộc linh quý báu trên linh trình theo Chúa.

Trước hết, chúng ta đề cập đến Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa Giê-su.

Có lẽ, Ma-ri là nhân vật nữ nổi bật hơn hết trong những người nữ xuất hiện trong dịp Giánh Sinh năm xưa. Kinh Thánh nhắc đến khá nhiều về người nữ nầy, dù nàng chỉ là một cô thôn nữ ở một làng quê nhỏ ít có tiếng tăm gì và ít người biết đến là làng Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê:

Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít. Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi, Chúa ở cùng ngươi... Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Giê-su” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 26-28, và 31).

Sau những thắc mắc vốn có về sự chịu thai mầu nhiệm mà thiên sứ đã cho nàng biết, thì nàng đã trả lời: “Tôi đây là tôi tớ Chúa, xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 38).

Qua những câu Kinh Thánh nầy, trước hết, chúng ta thấy Ma-ri là một người nữ được ơn. Một người được ơn là một người như thế nào? Ấy là người được Chúa ở cùng. Người được ơn là người luôn biết vâng lời Chúa. Ma-ri đã nói: “Xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền.”

Trong khi đang mang thai thì nàng đi đến thăm một người nữ bà con với mình là Ê-li-sa-bét. Sau khi bà Ê-li-sa-bét khen ngợi nàng là người được phước và thai trong lòng nàng cũng được phước nữa, thì Ma-ri đã nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi. Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 46-48).

Qua lời bày tỏ của Ma-ri, chúng ta được biết thêm, một người được ơn không những là người được Chúa ở cùng, không những là người biết vâng lời Ngài, mà còn là người luôn biết ngợi khen Chúa và vui mừng trong Chúa nữa.

Khi ngày sanh đẻ của Ma-ri đã đến, Kinh Thánh cho biết nàng sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở. Câu chuyện Chúa giáng sinh đã được Nhà Văn Kiêm Sử Gia Kiêm Bác Sĩ Lu-ca thuật lại trong chương 2 của sách mang tên ông thật kỳ diệu, lạ lùng. Khi Ma-ri sanh Hài Nhi Giê-su thì có thiên sứ từ trời đến loan báo Tin Lành cho các anh chăn chiên đang trú ngoài đồng giữa đêm khuya giá lạnh.

Sau khi nghe Tin Lành từ thiên sứ loan báo, các anh chăn chiên đã rủ nhau đi đến nơi Chúa vừa sanh hạ là tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê để được tận mắt chiêm ngưỡng Hài Nhi Thánh. Họ thấy tất cả mọi sự đã diễn ra đúng y như lời thiên sứ đã phán truyền, họ bèn thuật lại những lời thiên sứ nói về Con Trẻ Giê-su cho mọi người.

Về phần Ma-ri, người vừa sanh hạ Chúa Giê-su thì được Kinh Thánh ghi lại rằng: “Còn Ma-ri thì ghi nhớ mọi lời ấy và suy nghĩ trong lòng” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 19).

Kinh Thánh cũng cho biết: “Khi Giô-sép và Ma-ri đã làm trọn mọi việc theo luật pháp Chúa rồi thì trở về thành của mình là Na-xa-rét trong xứ Ga-li-lê” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 39).

Như vậy, chúng ta thấy một người được ơn thì luôn luôn ghi nhớ lời Chúa và suy niệm trong lòng mình. Một người được ơn thì sẽ luôn luôn cố gắng nhờ ơn Chúa hoàn thành mọi công việc Chúa giao cho mình cách tốt đẹp nhất. Không bỏ dở công việc, không thả trôi công việc, vì thả trôi công việc là đồng nghĩa với phá hoại công việc vậy: “Kẻ thả trôi trong công việc mình cũng là anh em của kẻ phá hoại” (Sách Châm Ngôn, chương 18, câu 9).

Người nữ thứ hai hiện diện trong dịp Giáng Sinh năm xưa, đó là bà Ê-li-sa-bét.

Kinh Thánh giới thiệu về Ê-li-sa-bét như sau: “Trong đời Hê-rốt, vua nước Giu-đê, có một thầy tế lễ, về ban A-bi-a, tên là Xa-cha-ri, vợ người là Ê-li-sa-bét, thuộc về chi phái A-rôn. Cả hai đều là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn và lễ nghi của Chúa một cách không chỗ trách được” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 5, 6).

Sau khi nghe biết về việc Đức Chúa Trời sẽ ban cho hai vợ chồng bà một đứa con trong khi ông bà đã cao tuổi, thì bà đã xác nhận: “Ấy là ơn Chúa đã làm cho tôi, khi Ngài đã đoái đến tôi, để cất sự xấu hổ tôi giữa mọi người.” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 25).

Ê-li-sa-bét là người đầu tiên đã có lời khen ngợi Ma-ri về việc nàng mang thai Chúa Giê-su: “Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót, và Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy là mẹ Chúa ta đến thăm ta? Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 41-45).

Qua những gì Kinh Thánh nói về Ê-li-sa-bét và qua lời bà bày tỏ, cũng như qua những lời khen tặng của bà dành cho Ma-ri, chúng ta thấy mấy điều tốt đẹp về người nữ nầy:

- Thứ nhất, Ê-li-sa-bét là người công bình và vâng giữ Lời Chúa một cách tuyệt vời.

- Thứ nhì, Ê-li-sa-bét là người luôn nhớ ơn và biết ơn, chứ không phải là người quên ơn hay vô ơn.

- Thứ ba, Ê-li-sa-bét là người không so bì, ganh tỵ. Không ít người khi thấy người khác nhận được phước hạnh gì đó, thì liền so bì, ganh tỵ. Người đó có hơn gì tôi mà lại nhận được phước ấy? Tại sao tôi lại không được nhận? Thật là không công bằng!...v.v... và v.v...

- Thứ tư, Ê-li-sa-bét là người có tinh thần khích lệ người khác. Bà nói với Ma-ri: “Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước”

- Thứ năm, Ê-li-sa-bét có lòng vui mừng trước phước hạnh của người khác. Bà nói: “Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy là mẹ Chúa ta đến thăm ta. Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng”

Sở dĩ, bà Ê-li-sa-bét có được những điều đáng quý ấy là vì Kinh Thánh cho biết bà là người được đầy Đức Thánh Linh.

Đó là những điều đáng quý từ bà Ê-li-sa-bét mà chúng ta học được.

Người nữ thứ ba xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa là Nữ Tiên Tri An-ne.

Kinh Thánh viết về bà rằng: “Lại có bà Tiên Tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, về chi phái A-se, đã cao tuổi lắm. Từ lúc còn đồng trinh đã ở với chồng được bảy năm, rồi thì ở góa. Bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi, chẳng hề ra khỏi đền thờ, cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Một lúc ấy, người cũng thình lình đến đó, ngợi khen Đức Chúa Trời, và nói chuyện về Con Trẻ với mọi người trông đợi sự giải cứu của thành Giê-ru-sa-lem” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 36-38).

An-ne là một Nữ Tiên Tri của Đức Chúa Trời. Tên của bà có nghĩa là “Ân sủng”, hay “Ân Điển”. Bà được Chúa dùng như là một phát ngôn nhân của Ngài.

Bà có chồng và sống với chồng được bảy năm, rồi sau đó ở góa. Có lẽ chồng bà đã qua đời vì một lý do nào đó, chúng ta không biết, vì Kinh Thánh không có nói đến. Khi ở vào tuổi hơn bát tuần (tám mươi bốn tuổi), bà vào ở luôn trong đền thờ để hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Có lẽ vì tuổi tác quá cao, đi lại không còn khỏe như trước, nên bà đã xin vào ở luôn trong đền thờ để phục vụ Chúa cho thuận tiện.

Nữ Tiên Tri An-ne có những đức tính đáng quý đáng cho chúng ta học hỏi và làm theo:

- Bà là người luôn sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ngày xưa, nói đến đền thờ là nói đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời. An-ne “chẳng hề ra khỏi đền thờ”, có nghĩa bà là người luôn ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

- Bà là người hầu việc Chúa cách sốt sắng hiếm có. Cụm từ “cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời” cho thấy tinh thần hầu việc Chúa quý báu đó của bà.

- Bà là người có một đời sống thuộc linh gương mẫu thể hiện qua việc bà kiêng ăn, cầu nguyện với Chúa.

Có thể nói rằng lòng bà luôn hướng về Chúa, không lúc nào ngơi nghỉ. Lòng bà giống như lời Chúa chép rằng: “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất, chương 5, câu 16, 17).

- Bà là người có tấm lòng ngợi khen Đức Chúa Trời. Nữ Tiên Tri An-ne là người đã có mặt trong thời điểm sau khi Chúa Giê-su sanh ra và khi Ngài được đem đến đền thờ để dâng cho Đức Chúa Trời. Bà xuất hiện một cách thình lình, bất ngờ với mục đích là ca ngợi Chúa và nói chuyện với mọi người về Con Trẻ Giê-su. Lòng bà trước đó có lẽ luôn hướng về Đấng Mết-si-a đến để ban sự cứu rỗi cho nhân loại. Cho nên khi được biết Chúa Giê-su được đem đến đền thờ thì bà rất vui mừng, liền đến để chiêm ngưỡng, ngợi khen và giới thiệu với mọi người về Đấng mà bà đã mong đời từ lâu.

Có thể nói rằng, nếu các anh chăn chiên là những người nam đầu tiên rao báo Tin Lành về Chúa Giê-su giáng sinh, thì An-ne là người nữ đầu tiên được Chúa dùng để giới thiệu về Đấng Cứu Thế cho người khác vậy.

Thật đáng quý cho một tấm lòng như thế!

Đó là một số những người nữ xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa, cách đây hơn hai ngàn năm đã qua. Cuộc đời theo Chúa của họ đã để lại cho chúng ta nhiều bài học thuộc linh quý báu, để chúng ta có thể học hỏi và làm theo trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài của mình ngày hôm nay.

Họ là một trong nhiều gương mẫu thuộc linh đáng kính mà Kinh Thánh đã ghi lại để đem lại sự khích lệ cho nhiều người trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong niềm tin đặt nơi Chúa!

Giáng Sinh lại về, những nhân vật nữ đáng yêu nầy chắc chắn sẽ lại được con dân Chúa khắp nơi nhắc đến đời sống tin kính của họ để lan tỏa tình yêu của Đấng Cứu Thế cho mọi người gần xa!

California, Mùa Giáng Sinh 2023!

Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu