Trang Đầu | Mục Lục | Bài 2 >> | Hướng Dẫn

Bài 1

Sương mờ Portland

 

  Tôi thức dậy thật sớm để kịp đến trường.  Thời tiết Portland những ngày đông rét buốt.  Bên ngoài, tuyết rơi trắng xóa.  Khoác thêm một cái vest thật dày cho đỡ lạnh, nhưng tôi phải co rút đầu xuống để bước đi. Đường phố vẫn còn vắng lặng dường như người ta đang say ngủ.  Tôi đứng chờ xe buýt hơn mười phút mà vẫn không thấy nó ở đâu.  Tôi nhắm mắt cầu nguyện: "Chúa ôi! Con không muốn đến lớp trễ hôm nay xin Ngài cho xe buýt đến kịp giờ. Con cảm ơn Chúa!" Cầu nguyện lần thứ nhất, mở mắt ra chẳng thấy gì, lần thứ hai vẫn chưa có gì thay đổi. Nhưng lần thứ ba, vừa mở mắt ra, một chiếc xe hơi màu bạc cũng vừa trờ tới.  Như cái máy, tôi đưa tay vẫy xin quá giang.  Xe dừng lại đột ngột. Một người thanh niên da trắng trạc tuổi ba mươi ra dấu bảo tôi lên xe.  Tôi mừng quýnh chưa kịp nói điều gì ngoài lời cảm ơn thì anh ta lên tiếng:

- Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh, chúng ta cùng trường và cùng lớp.

Tôi hết sức ngạc nhiên:

- Thế à? Cảm ơn Chúa!

Anh ấy tươi cười nói thêm:

- Mình là người hàng xóm nữa.  Nhà tôi ở đối diện nhà anh.

Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tôi nhìn anh ta đáp lại niềm vui bằng ánh mắt.

Chỉ có mấy phút sau là chúng tôi đến trường.  Bước ra khỏi xe hơi, Patrick và tôi trở nên bạn của nhau từ đó.  Chuông báo hiệu giờ học đã bắt đầu.  Buổi sáng hôm ấy lòng tôi rạo rực một niềm vui khó tả.  Đức Chúa Trời quá nhân từ và Ngài biết tôi đang cần gì. Ngài bước đi với tôi mỗi bước, che chở cho tôi trên mỗi chặng đường.  Làm sao chúng ta có thể hình dung được ở xứ Mỹ rộn ràng, đầy phức tạp này mà có người xin xe quá giang như tôi? Không chỉ một lần mà việc này đã xảy ra nhiều lần tương tự.  Ngày mới đến thành phố này, tôi bị lạc đường đôi lần và đã từng đưa tay vẫy xin xe quá giang.  Lúc đó, tôi đang ở tại nhà mục sư Lê Tự Cam trên một ngọn đồi cách xa trường ba mươi phút.  Trời nắng chang, bụng đói cồn cào, người mệt lã nên tôi đến gặp một người phụ nữ đang sửa chữa điện ở cột đèn vừa xong:

-          Cô ơi! Tôi bị lạc đường, xin cô làm ơn chỉ giúp tôi địa chỉ này có được không ạ?

Người phụ nữ tươi cười cầm lấy tờ điạ chỉ và bảo tôi lên xe:

-          Được rồi, tôi sẽ chở anh đến đó.

Ngồi trên xe, lòng tôi mỉm cười không hiểu nổi tại sao giữa cái xứ sở quá ư rộn ràng và tất bật mà vẫn có những con người tốt bụng như vậy?  Mùi cát bụi từ những cái găng tay dơ dáy pha lẫn với mùi của "cà-lê, mỏ-lếch" ngổn ngang mà tôi cứ tưởng chừng như mùi vị của một thứ hương hoa nào đó ngọt ngào và dễ chịu.  Đó là mùi vị tình yêu của Đức Chúa Trời mà mắt trần của chúng ta không nhìn thấy được.

Chưa được ba phút, chỉ cần quẹo sang một khúc cong dọc theo phía triền núi, người lái xe mỉm cười nói với tôi:

- Đó kìa, nhà này phải không?

    Tôi reo lên:

- Vâng, đúng rồi ạ.  Tôi bước xuống xe cảm ơn người phụ nữ rối rít và không quên nói, "God bless you!" Tôi ngẩng mặt lên trời để cảm ơn Chúa.   Ngài quả thật kỳ diệu, và tôi nhớ đến Lời Chúa:

 "Song tôi cứ ở cùng Chúa luôn luôn

 "Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi…

 "Ở trên trời tôi có ai ra trừ Chúa?

  "Còn đưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa"

                         (Thi Thiên 73: 23, 24, 25)

         Mùa rét mướt rồi cũng qua đi.  Những bông hoa tuyết đã tan biến nhường chỗ cho nắng Xuân.  Qua ô cửa kính, màu tím, vàng, xanh, đỏ rực rỡ nhưng dịu dàng của những hàng cây thẳng tắp nối tiếp nhau tận cuối đường.  Tôi cảm ơn Chúa vì không còn phải chịu đựng những cơn rét cóng người, không còn phải mang hai ba lớp vớ cùng một lúc.  Nhìn lên tờ lịch, một dấu chấm đỏ mà tôi đã chéo ngang để nhắc nhở chính mình về ngày đám cưới con gái đầu của tôi, Thục Hạnh.  Tôi hao hức chờ đợi ngày ấy sẽ được gặp lại vợ con của mình.  Họ đang ở tận miền nam Cali thành phố San Diego hiền hoà cách xa tôi gần ba giờ bay.

Đã bao nhiều đêm rồi, tôi thỏ thẻ thưa cùng Chúa:

"Chúa Jê-sus ôi!  Sao Ngài đặt để con nơi này?  Con mong được sống gần vợ và con cái.  Con thèm khát cái không khí ấm áp của gia đình.  Con ao ước có được bữa ăn tối quây quần bên những người thân yêu.  Con mong đợi có một bàn tay chăm sóc, an ủi.  Con sợ lắm cái cảnh này!  Chúa ôi!  Con thực sự không đủ sức chống cự với nỗi cô đơn dai dẳng.  Chúa ôi! xin Ngài đáp lời con."

Bên ngoài, bóng tối đổ xuống rất nhanh.  Những ánh đèn nhạt nhòa trong lớp sương mờ đục.  Tôi qùy gối từng đêm chuyện trò cùng Chúa để trao hết tâm sự cho Ngài.  Căn nhà trọ, trường đã thuê cho tôi là một apartment dành cho sinh viên quốc tế.  Họ ở đây là những gia đình có vợ chồng con cái.  Còn tôi, trơ trọi một mình.  Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua.  Thật không dễ dàng chút nào trong cuộc sống đơn điệu và quạnh hiu!

Lục lọi hết đống quần áo của mình từ Việt Nam mang qua, không có bộ áo quần nào ra hồn để mặc trong ngày cưới của con gái.  Tôi bèn quì gối cầu nguyện:

"Chúa Jêsus của con ôi!  Xin Ngài cho con một bộ áo quần màu đen với chiếc quần lai lật để mặc trong ngày đám cưới con gái.  Một cái áo vest "phong trần" vải nỉ, để mặc lên lớp trong những buổi sáng sớm trời lạnh."

Thế rồi, những ngày sau đó, tôi nhìn thấy một đống áo quần nằm trong chiếc xe "shopping cart" cạnh chiếc cầu thang  mà tôi lên xuống mỗi ngày.  Một buổi sáng trước giờ đến lớp, Patrick hỏi tôi:

- Áo quần của ai để đây vậy, Uncle The?

- Tôi đâu có biết, Patrick ạ!

      Người bạn Mỹ của tôi nhặt lên từng cái một.  Mắt tôi mở to nhìn vào đống áo quần sửng sốt.  Tôi nhảy lên trước sự ngạc nhiên của người bạn.  Một bộ vest màu đen còn mới toanh với chiếc quần lai lật, hai áo vest bằng sợi len màu xám.  Tôi mừng rỡ và làm chứng cho người bạn của mình về lời cầu xin Chúa của tôi trong những ngày qua.  Patrick cười thật tươi và giúp tôi mang hộ những áo quần lên phòng nơi tôi ở.  Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của tôi và đáp lời. Ngài đã ban cho tôi nhiều hơn những gì tôi đã xin.  Những ngày sau đó, tôi chia sẻ một áo vest cho một người anh em hầu việc Chúa tai Hội thánh Nước Sống.  Tôi làm chứng lại cho cậu ấy nghe món quà mà Đức Chúa Trời đã ban tặng.  Lời của Chúa phán hứa đã ứng nghiệm:

        "Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi.  Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi diều ấy nữa.  Vậy chớ lo lắng chi về ngày mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai.  Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy."

                            (Mathiơ 6:31, 32, 33, 34)

 

Chuyến bay của hãng Alaska từ Portland đưa tôi về California vào một ngày nắng ấm.  Bước ra khỏi phi trường lòng tôi hân hoan được gặp lại những người thân yêu của mình.  Chính nơi đây, đã bao lần vợ con tôi đưa tiễn.  Tôi rất sợ cảnh chia tay và sống mỗi người một ngã.  Tôi cố gạt bỏ đi những liên tưởng đến ngày ra đi trở lại trường.  Giờ đây, tôi ngẩng mặt lên trời để bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa và tận hưởng niềm hạnh phúc.  Từ trong sâu thẳm của đáy lòng tôi có được bài học thật quí giá:

 

"Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ ngươi trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài.  Hãy nhờ cậy Đức Giê-hô-va đời đời, vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va là vầng đá của các thời đại!"

 

Lời Chúa văng vẳng bên tai.  Tôi cất giấu Lời Ngài vào trái tim mình để vững bước đi trên những chặng đường gian nan sắp tới.

Sau đám cưới, trở lại Portland lần này tôi bớt buồn hơn vì có cô con gái thứ nhì tháp tùng.  Thục Uyên, tình nguyện đi theo để chăm sóc cho ba.  Có hai cha con, căn hộ rộn ràng hơn trước.  Tôi xin cho Uyên một chỗ làm thêm trong một tiệm sách của người Việt Nam.

Mỗi chiều, tôi thường ngồi ở cầu thang mong đợi con gái về. Patrick cho Uyên mượn xe đạp đến trường mỗi ngày và dùng nó để làm phương tiện đến tiệm sách.  Hai cha con thay phiên nhau lo việc nấu nướng hằng ngày.  Chúng tôi ăn uống sơ sài qua bữa, chỉ mong sao đủ tiền trang trải cho tiền nhà, điện và học phí của tôi là thỏa lòng rồi.

Ngày hôm ấy, sau khi từ trường trở về chưa kịp ăn uống, hai cha con đã lội bộ đến tận cuối con đường rất xa để cùng khiêng cái giường cũ người ta vất ngoài đường, đem về cho Uyên nằm. Cái giường nặng lắm, Uyên đội trên đầu muốn vẹo cổ.  Ngày còn ở Việt Nam, Chúa đã ban cho gia đình chúng tôi mọi thứ.  Có thể nói rằng giáo giới như chúng tôi chỉ thèm thuồng và mơ ước.  Nhà lầu bốn cái dùng làm trường học, cho người nước ngoài thuê, cho em gái của mình,  cái còn lại dùng để ở.  Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, chúng tôi sống trong điều kiện dư thừa và sung túc. Con cái đến trường trong những bộ aó quần đắt tiền và đi những chiếc xe xinh đẹp, có người đưa kẻ đón.  Chúng chưa bao giờ phải vất vả làm lụng hay lo nghĩ đến tiền bạc.  Những nhà hàng nào sang trọng, chúng tôi không ngần ngại bước vào.  Cuộc sống phước hạnh đó, là do Đức Chúa Trời đem đến.

Ngày nay, sống ở một đất nước phồn vinh, nhưng chúng tôi là những kẻ nghèo khó.  Gia tài qúy giá nhất đó là niềm tin tuyệt đối vào một Chúa Jê-sus nhơn lành.  Không nản lòng, vững chí bước đi bởi vì lòng chúng tôi tin quyết vào một Đức Chúa Trời đầy quyền năng giàu lòng thương xót.  Ngài có chương trình cho chúng tôi.  Hoàn toàn tin tưởng như vậy, chúng tôi mạnh mẽ bước đi trong gian khổ để trưởng thành, chịu thử thách để được rèn luyện và hy vọng vào một ngày sẽ được Đức Chúa Trời đại dụng.

 

 "Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi!

"Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!

"Phước cho những kẻ đói khát sự công bình vì sẽ được no đủ!

      "Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót!"

                                    (Mathiơ 5:4-7)